Để học tốt Ngữ văn lớp 7, loạt bài Soạn văn lớp 7 Kết nối tri thức Tập 1 & Tập 2 hay nhất, ngắn gọn nhưng đầy đủ nội dung cần thiết được biên soạn bám sát các câu hỏi trong SGK Ngữ văn 7 giúp học sinh dễ dàng soạn văn 7. Cùng tìm hiểu bài viết: Soạn bài Chiều sông Thương - Kết nối tri thức Ngữ văn lớp 7 của chúng minh nhé.
Mục lục bài viết
1. Soạn bài Chiều sông Thương – Kết nối tri thức Ngữ văn lớp 7:
Nội dung chính: Chiều sông Thương chiều thu tĩnh lặng; Hình ảnh một miền quê mộc mạc, trù phú và yên bình trong một buổi chiều thu tối, dòng sông thơ mộng, một miền quê trù phú với bao sức sống tiềm tàng… gợi lên biết bao cảm xúc xao xuyến. Qua đó, họ thấy được tình yêu mãnh liệt của tác giả đối với thiên nhiên, quê hương.
Câu 1 (trang 55 SGK Ngữ văn lớp 7, tập 1):
– Thể thơ: 5 chữ.
– Từ ngữ: giàu vần điệu du dương, lời thơ nhẹ nhàng,
– Hình ảnh gần gũi, mộc mạc, giàu sức mạnh, đẹp đẽ, trong sáng,
– Cảm xúc dâng trào, bâng khuâng, ngập ngừng.
– iện pháp tu từ: ẩn dụ, nhân hóa, chuyển đổi cảm giác….
Câu 2 (trang 55 SGK Ngữ văn lớp 7, tập 1):
Vẻ đẹp sông Thương lúc hoàng hôn:
– Cảnh sông: nước đôi, chiều thời thượng, sông nâu, sông xanh, nắng thu rực rỡ
– Cảnh đồng ruộng: lúa cúi mình giấu quả, ruộng, mạ thò lá mới, lớp bùn sếnh sang
=> Hình ảnh trong trẻo và nên thơ của một buổi chiều mùa thu gợi nhớ mùa thu đang đến và đã về làng. Cảnh đẹp nên thơ, thơ mộng, sôi động của quê hương được cảm nhận bằng bao yêu thương và bao hy vọng. Bức tranh chiều sông Thương, bức tranh miền quê mộc mạc, trù phú và thanh bình, nơi đây, thời gian
Câu 3 (trang 55 SGK Ngữ văn lớp 7, tập 1):
Cảm xúc, suy nghĩ của nhà thơ về dòng sông Thương và quê hương:
– Dùng dằng: đi đường xa về có cảm giác như đang “dùng dằng” rồi dừng lại, nhìn cao nhìn thấp, nhìn gần nhìn xa, lúc theo cánh hoa, lúc nhìn trăng non, chiều mây mà lòng tôi bâng khuâng. .
– Trìu mến, ngậm ngùi ngắm cảnh quê hương: suối đôi nước, mùa hoa chiều, lúa mạch giàu dinh dưỡng, mầm lá mới. Và khi nhìn thấy sự thay đổi ở quê hương, lòng tác giả rung động và vui mừng “những gì tôi gửi cuối cùng/ sắp vàng rực mọi mặt”.
– Háo hức, háo hức “ôi con sông màu nâu, ôi con sông màu biếc”. Nghệ thuật
2. Tìm hiểu về tác giả và tác phẩm Chiều sông Thương – Kết nối tri thức Ngữ văn lớp 7:
2.1. Tác giả:
– Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm: 1942
– Quê quán: Tam Đường – Vĩnh Phúc.
– Năm 1963 ông nhập ngũ và bắt đầu làm thơ.
– Từ năm 2000, ông giữ chức vụ Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.
– Từ năm 2005, ông là chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam.
– Năm 2010, ông là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam thầm lặng Hội Nhà văn Việt Nam.
– Thơ Hữu Thỉnh thể hiện tình cảm sâu sắc, nồng nàn và gắn bó với đất nước, con người, cảnh quan Việt Nam; Ngôn ngữ thơ giản dị mà tinh tế.
2.2. Tác phẩm:
– Thể loại: Bài thơ thuộc thể thơ năm chữ
– Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
Tác phẩm Chiều sông Thương được trích từ cuốn sách độc đáo Tiếng hát trong rừng của nhà thơ Hữu Thỉnh với những cảm xúc căng thẳng, nhẹ nhàng, thoáng qua cùng một số hình ảnh ẩn chứa đầy chất thơ, sáng tạo và đẹp đẽ.
Bài thơ “Chiều sông Thương” được Hữu Thỉnh sáng tác vào tháng 10 năm 1973, in trong tập thơ ‘Từ chiến hào tới thành phố”…
– Phương thức biểu đạt:
Văn bản Chiều sông Thương có phương thức biểu đạt là biểu cảm
– Tóm tắt văn bản Chiều sông Thương:
Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp thơ mộng, bình yên và đầy sức sống của vùng quê Quan Hồ bên sông Thương, thể hiện nỗi tiếc nuối của những người phương xa về “về thăm quê hương một chiều yêu thương”.
– Bố cục bài Chiều sông Thương:
Chiều sông Thương có bố cục gồm 2 phần:
+ Phần 1: Ba khổ thơ đầu: Cảnh sông Thương hiện lên từ xa trong mắt người xa quê.
+ Phần 2: Ở lại: Phong cảnh sông Thương và cảm xúc với quê hương người về.
– Giá trị nội dung:
Bài thơ Chiều sông Thương miêu tả cuộc sống làm việc và sinh hoạt vui vẻ, bình yên của một vùng quê Bắc Bộ trong một buổi chiều thu trong trẻo. Qua đó thể hiện sức sống mãnh liệt của vùng quê Quan Hồ bên sông Thương cùng nỗi tiếc nuối của những người đi phương xa “về thăm quê hương một chiều yêu thương”.
– Giá trị nghệ thuật:
+ Thể thơ 5 chữ, giàu vần điệu du dương.
+ 32 câu thơ viết liền mạch, không ngắt quãng, tạo cảm giác cả bài thơ như một dòng cảm xúc mạnh trong bụng bùng nổ trong chốc lát.
+ Lời bài hát nhẹ nhàng, hình ảnh đẹp đẽ, trong sáng, cảm xúc phong phú, đăm chiêu, trầm tư.
3. Phân tích bài thơ Chiều sông Thương:
Đọc thơ Hữu Thỉnh, chúng ta cảm nhận được sự sâu sắc, tinh tế của vẻ đẹp thiên nhiên, đất trời và con người Việt Nam. Đặc biệt, bài thơ “Chiều sông Thương” với những hình ảnh gần gũi, quen thuộc và ca từ sâu lắng đã mang đến cho người đọc những rung động sâu sắc về khung cảnh dọc sông Thương và những tình cảm chân thành của nhà thơ. .
Mở đầu bài thơ, chúng ta thấy được hoàn cảnh của nhân vật:
“Đi suốt cả ngày thu
vẫn chưa về tới ngõ
dùng dằng hoa Quan họ
nở tím bên bờ sông”
Ngày mùa thu buồn bã dường như bao trùm cả khung cảnh. Không khí trì trệ của thời tiết đã kéo theo bước chân của những người xa nhà “chưa về ngõ”. Trong khoảnh khắc bắt gặp hình ảnh quen thuộc “hoa Quan họ” nở tím bên bờ sông, nhân vật trữ tinh nhìn toàn cảnh:
“nước vẫn nước đôi dòng
chiều vẫn chiều lưỡi hái
những gì sông muốn nói
cánh buồm đang hát lên”
Với biện pháp điệp cấu trúc “nước vẫn nước đôi dòng/ chiều vẫn chiều lưỡi hái” nhấn mạnh cảnh vật quê hương vẫn vậy, không thay đổi. Nổi bật trên không gian sông nước bao la của khối mo là hình ảnh những chiếc thuyền. Nhà thơ rất khéo léo khi miêu tả trạng thái tâm hồn “im lặng” nhưng “năng động” của họ. Từ “hát” nhân hóa không chỉ miêu tả trạng thái “đầy gió” mà còn thể hiện niềm vui trong con người qua ca từ, bài hát.
Bức tranh thiên nhiên ngày càng được mở rộng nhờ những bức vẽ tài năng:
“đám mây trên Việt Yên
rủ bóng về Bố Hạ
lúa cúi mình giấu quả
ruộng bời con gió xanh”
Việc lựa chọn đơn vị và cách dùng từ cho chúng ta thấy sự độc đáo, thú vị của nhà thơ. Bầu trời cao xa dần trở nên
Theo dòng chảy của con sông quê, nhà thơ thấy được:
“nước màu đang chảy ngoan
giữa lòng mương máng nổi
mạ đã thò lá mới
trên lớp bùn sếnh sang”
Có thể thấy mỗi đồ vật đều chuyển động theo một cách rất riêng. “Nước màu” hay còn gọi là nước phù sa vẫn “chảy” vào “mương”, mang theo chất dinh dưỡng cung cấp cho đồng ruộng. Xa xa, vài cụm cây con mới gieo đã khoác lên mình bộ áo mới xanh mướt, dịu dàng. Lớp bùn cũng được cày xới kỹ càng, trở nên mịn màng. Mọi thứ vẫn tiếp tục sôi sục, nảy nở sức sống từng ngày như báo hiệu một mùa giông bão bội thu. Có lẽ đó cũng là tâm nguyện của nhà thơ và người dân Kinh Bắc “vì vẻ đẹp mùa an bình/thịnh vượng của quê hương”. Chứng kiến sự giàu có, trù phú ở quê hương, nhà thơ tràn ngập niềm hạnh phúc và đam mê. Cánh đồng nào cũng giành được ánh vàng của lúa có “ngô vàng bên trong”. Niềm vui, sự hài lòng tràn ngập và lan tỏa khắp mọi ngóc ngách của miền quê. Với hương nghệ thơm ngát, nhà thơ trân trọng và trân trọng món quà quý giá mà dòng sông ban tặng cho người thợ “những hạt phù sa thân quen/dù như cổ tích”. Hạt phù sa kỳ diệu tựa như một phép màu trong truyện cổ tích, khiến cho cánh đồng tươi tốt, màu mỡ, mang lại sự ấm no, ấm no cho quê hương.
Từ cảm giác lâng lâng, bâng khuâng khi người xem ngắm nhìn khung cảnh bên bờ sông Thương, nhà thơ hoàn toàn chìm đắm trong vẻ đẹp yên bình. Cảm xúc, đam mê được gói gọn trong hai câu thơ “ôi dòng sông nâu/ôi dòng sông xanh”. Điệp khúc “ồ” kết hợp với các từ “nâu”, “xanh” cũng thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả. Dòng sông dù màu nâu phù sa hay trong và “xanh biếc” thì nó vẫn mang đến sự sinh trưởng, nảy nở “dâng cho mùa sắp gặt/ bồi cho mùa phôi thai”.
Với thể thơ năm chữ ngắn gọn, hình ảnh thơ quen thuộc, gần gũi, ca từ giàu cảm xúc kết hợp với các biện pháp tu từ như: nhân cách hóa “sông muốn nói”, so sánh “mắt dài như cau” đã khắc họa một cách sinh động bức tranh về con người. Sông Thương một chiều thu. Ngoài ra,
Bài thơ “Chiều sông Thương” không chỉ phác họa bức tranh làng quê thanh bình ở đồng bằng Bắc Bộ mà còn chứa đựng tình yêu, sự gắn bó của Hữu Thịnh. Mong rằng bài thơ sẽ sống mãi với dòng thời gian.