Văn bản là cuộc đối thoại giữa hai vợ chồng nhạc sĩ Min-le cho thấy xung đột giữa hai ông bà, liên quan đến mối quan hệ giữa Luy-dơ (con gái họ) với Thiếu tá Phéc-đi-năng (con trai Tể tướng). Bài viết dưới đây cung cấp cho độc giả bài soạn văn bản Âm mưu và tình yêu.
Mục lục bài viết
1. Tổng quan tác phẩm Âm mưu và tình yêu – sách Chân trời sáng tạo:
– Nội dung chính: Văn bản là cuộc đối thoại giữa hai vợ chồng nhạc sĩ Min-le cho thấy xung đột giữa hai ông bà, liên quan đến mối quan hệ giữa Luy-dơ (con gái họ) với Thiếu tá Phéc-đi-năng (con trai Tể tướng).
– Tóm tắt: Vở kịch bao gồm 5 màn kịch dưới dạng văn xuôi. Luizơ là con gái của nhạc công Mile và thiếu tá Fecđinăng là con trai của Tể tướng Fôn Vante. Phu nhân Minfo, người từng là tình nhân của Công tước, đã bị Công tước cảm thấy chán chường. Tể tướng ép thiếu tá phải lấy phu nhân Minfo để giành lòng của Công tước. Fecđinăng gặp Minfo và nói với phu nhân rằng, anh ấy đã có vợ là nàng Luizơ, điều này làm cô rất ngượng ngùng. Tể tướng xúc phạm Luizơ và mỉa mai cô là con gái điếm, đồng thời khiển mạt sát ông bà Minle. Tể tướng và thiếu tá cãi nhau dữ dội. Thiếu tá rút kiếm lên trần và đâm mạnh một số nhân viên tòa án. Đổng lí Vuôm đề xuất kế hoạch để bắt giam ông bà Mile. Để giải cứu bố mẹ, Luizơ phải viết một bức thư tình và gửi đến Thị vệ trưởng Fôn Canbơ để họ đọc. Họ mang lá thư tình đó đến Fecđinăng. Fecđinăng thách thức Thị vệ trưởng tham gia trò đọ súng, khiến bọn họ sợ hãi. Đau khổ… Fecđinăng pha loãng dược độc và bắt buộc người yêu và chính mình uống. Chỉ khi uống hết dược độc, Luizơ mới nhận ra sự đau đớn thực sự! Trong cùng thời điểm đó, Tể tướng buộc phải đầu hàng cho nhân viên tòa án.
2. Soạn bài Âm mưu và tình yêu – sách Chân trời sáng tạo:
Câu 1 (trang 133 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Kẻ hai bảng dưới đây vào vở, liệt kê một số hành động của các nhân vật góp phần phát triển mâu thuẫn, xung đột kịch trong văn bản.
Trả lời:
Bảng a:
Thứ tự hành động | Hành động của Luy-đơ | Hành động của ông bà Min-le |
1 | Hỏi thăm Van-te có tới không | – Bà Min-le hỏi người Luy-đơ nhắc tới là ai. – Min-le buồn bã, tưởng Luy-đơ đã quên được Van-te |
2 | Bày tỏ tâm tư, suy nghĩ trong lòng của mình | Min-le thất vọng gieo mình xuống ghế |
3 | Lo lắng không biết Van-te đang ở đâu. Cãi lại lời cha, khẳng định mình không thể quên Van-te | Min-le buồn bã, hai tay ôm mặt, sẵn lòng hi sinh tất cả những ngày sống thừa của mình để ước Luy-đơ chưa gặp Thiếu tá nhưng trước quyền thế không làm gì được. |
4 | Xin cha mẹ được nghĩ đến Van-te | Bà Min-le vội trốn đi, không dám gặp Thiếu tá khi thấy Thiếu tá tới. |
Bảng b:
Thứ tự hành động | Hành động của Phéc-đi-năng | Hành động của Tể tướng Van-te và bọn tay chân |
1 | – Chạy lại đỡ Luy-đơ, vội vàng kêu cứu nàng | Tể tướng Van-te: sai bọn tay sai, bắt Phéc-đi-năng tránh xa Luy-đơ |
2 | – Giận dữ, đứng ngăn giữa Luy-đơ với bọn lính tay sai – Xin cha không làm hại tới Luy-đơ | Đe dọa, sai bọn lính tới bắt Luy-đơ đi |
3 | Giận dữ, quát tháo bọn lính tay sai và thề độc, đồng thời tiếp tục xin cha | Sôi sục giận dữ, chửi bới bọn lính tay sai và ra lệnh chúng xông lên. |
4 | Chỉ trích hành động của tể tướng | Bảo binh lính lối đi |
5 | Nói rằng mình sẽ lên giá cùng Luy-dơ | Không quan tâm và lôi đi |
6 | Dùng thanh kiếm sĩ quan để xin cha | Bảo binh lính lôi cả hai đi |
7 | Thà tự đâm lưỡi kiếm qua xác vợ | Khiêu khích Phéc-đi-năng |
8 | Xin chúa chứng giám và uy hiếp tể tướng | Thả Luy-đơ |
Câu 2 (trang 134 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Theo bạn, chủ đề “Âm mưu và tình yêu” được thể hiện trong Hồi I – Cảnh 1 và Hồi II – Cảnh 2 có gì khác nhau? Nguyên nhân chính dẫn đến tình huống căng thẳng và xung đột giữa hai cha con Van-te – Phéc-đi-năng trong Hồi II – Cảnh 2 là gì?
Trả lời:
– Sự khác nhau của đề tài “Âm mưu và tình yêu” được thể hiện trong Hồi I – Cảnh 1 và Hồi II – Cảnh 2 là:
+ Hồi I – Cảnh 1: chủ đề nổi bật là tình yêu cháy bỏng của Luy-đơ dành cho người mình yêu thương, nàng đã vượt lên mọi rào cản, mọi sự ngăn cấm của cha mẹ. Trước những sự phản đối quyết liệt của cha mẹ, nàng chọn cách bỏ cuộc nhưng luôn giữ bên mình tình yêu.
+ Hồi II – Cảnh 2: Phéc-đi-năng đứng dậy tranh đấu cho tình yêu của cha mẹ, thà sống chết với con chứ không chịu thoả hiệp với cha.
– Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự mâu thuẫn và xung đột của hai cha con Van-te – Phéc-đi-năng trong Hồi II – Cảnh 2 là: sự ngăn cản của người cha đối với tình yêu của người con, người cha thấy rằng tình yêu này là không phù hợp, không có sự bình đẳng cho nên đã phản đối quyết liệt.
Câu 3 (trang 134 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Phân tích nét tính cách nổi bật của một trong hai nhân vật Thiếu tá Phúc-đi-năng Tể tướng Phôn Van-te. Cho biết nguyên nhân nào làm nảy sinh và phát triển xung đột bi kịch giữa hai nhân vật này.
Trả lời:
– Nét tính cách nổi trội của Tể tướng Phôn Van-te:
+ Là một người tàn nhẫn, nóng nảy, ỷ thế cậy quyền coi thường và ra uy với người có địa vị, chức vụ thấp hơn mình.
+ Hành động và ứng xử theo ý mình chứ không để tâm tới người xung quanh.
– Nguyên nhân gây ra sự bùng nổ xung đột bi kịch giữa hai nhân vật chính là: vì Tể tướng ngăn cản và coi thường tình cảm của người con. Người cha sẵn sàng tìm đủ mọi lý do để ngăn cản chuyện tình yêu của Phéc-đi-năng và Luy-đơ làm Phéc-đi-năng giận dữ, sẵn sàng phản kháng bằng mọi giá.
Câu 4 (trang 134 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Nhận xét về cách miêu tả, thể hiện diễn biến tâm lí, ngôn ngữ đối thoại, cử chỉ hành động của Luy-do.
Trả lời:
– Cách miêu tả, khắc hoạ diễn biến tâm lý, lời thoại, cử chỉ hành động của Luy-đơ cũng là điểm nhấn giúp xây dựng cao trào của vở kịch.
– Tác giả tường thuật về Luy-đơ, một người phụ nữ mạnh mẽ và kiên định, có nguồn gốc từ một gia đình nghèo khó, nhưng lại có tình yêu sâu đậm với con trai của tể tướng. Tình yêu của họ bị ngăn cấm và cuối cùng, Luy-đơ phải rời xa, còn con trai của tể tướng trưởng thành và chuẩn bị cho cuộc chiến, kết quả là mất mạng. Điều này giúp tác giả khắc họa một nhân vật đầy cảm xúc và đáng nhớ trong tâm trí của người đọc và người nghe.
Câu 5 (trang 134 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Nhận xét về cách sử dụng ngôn ngữ kịch trong Hồi I– Cảnh 1 và/ Hồi II- Cảnh 2 (cách phân bố lời thoại cho các nhân vật nhiều hay ít, dài hay ngắn, có hợp lí không, vì sao…)
Trả lời:
Cách dùng ngôn từ kịch trong Hồi I – Cảnh 1 và Hồi II – Cảnh 2:
– Hồi I – Cảnh I: nhân vật Luy-đơ và nhạc công Min-le có lời thoại dày đặc và dài nhất bởi vì đây là hai nhân vật chính trong Hồi I. Việc bố trí lời thoại như thế là hoàn toàn hợp lý vì bộc lộ rõ tính cách và nội dung truyền đạt.
– Hồi II – Cảnh 2: nhân vật Tể tướng và Thiếu tá Phéc-đi-năng xuất hiện dày đặc và liên tiếp cùng những lời thoại ngắn gọn. Cách bố trí lời thoại trên là vô cùng hợp lý, các câu thoại ngắn gọn, liên tiếp góp phần thể hiện cảm giác hồi hộp, căng thẳng, đẩy xung đột kịch đến cao trào, tạo tính hưng phấn đối với người xem.
Câu 6 (trang 134 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Trong văn bản trên, nhân vật nào mang đặc điểm rõ nhất của nhân vật bi kịch? Căn cứ vào đâu để bạn kết luận như vậy?
Trả lời:
– Trong câu chuyện trên, nhân vật Thiếu tá Phéc-đi-năng là nhân vật có đặc điểm nổi bật nhất của nhân vật bi kịch.
– Căn cứ vào diễn biến câu chuyện, ta thấy Phéc-đi-năng là nhân vật với xuất thân quý tộc đã can đảm và ngoan liệt chống trả với bạo quyền vì khát khao tự do và hạnh phúc. Nhân vật đã sẵn sàng hy sinh chính bản thân mình, chấp nhận hi sinh vì người mình yêu thương mà không cam chịu đầu hàng dưới sự cấm đoán của người cha. Qua đây, ta thấy tình yêu chân chính đã làm nên sức mạnh phi thường của những con người bất hạnh.
Câu 7 (trang 134 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Nêu một số dấu hiệu giúp bạn nhận biết phần văn bản trên (trích trong Âm mưu và tình yêu) thuộc thể loại bi kịch.
Trả lời:
– Trong văn bản trên, các dấu hiệu giúp em nhận diện đây là tác phẩm thuộc thể loại bi kịch:
+ Bi kịch là loại kịch đi sâu vào những mâu thuẫn giằng xé giữa các khát vọng cao đẹp của nhân vật với tình cảnh bi thảm của thực tại, dẫn tới việc thất bại hay cái chết của nhân vật.
+Trong tác phẩm “Âm mưu và tình yêu”, bi kịch thể hiện nguyện vọng lớn lao của con người: mong muốn được yêu thương, được sống bên cạnh người mình yêu thương. Đây là điều Phéc-đi-năng và Luy-đơ đối mặt trong bối cảnh bi thảm: sự ngăn cản của người cha Tể tướng, vì ông cho rằng tình yêu của họ không tương xứng, là đôi đũa lệch
+ Xung đột bi kịch: Phéc-đi-năng sẵn sàng tự tay giết chết người mình yêu và tự tử hoặc đâm vào ngực cũng vì tranh đấu cho tình yêu đích thực của mình. Trước bạo quyền của người cha, Phéc-đi-năng vẫn nhất mực chống trả, tranh đấu đến cùng cho quyền tự do và hạnh phúc của mình. Bạo quyền đã bị đánh bại chỉ bởi một câu nói của Phéc-đi-năng.
3. Phần mở rộng tìm hiểu tác phẩm:
3.1. Tìm hiểu chung:
– Thể loại: Bi kịch
– Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác: Trong cuốn “Âm mưu và tình yêu”, phiên bản dịch của Nguyễn Đình Thi, được xuất bản bởi Nhà xuất bản Sân khấu vào năm 2006, trang 50-55 và 137-141, đặc biệt, phần văn bản thuộc Hồi II – Cảnh 2 sử dụng ngôn ngữ được tham khảo từ sách Văn học lớp 11, tập hai, của Ban Khoa học Xã hội, gồm tác giả Phùng Văn Tửu, Đặng Anh Đào, Phạm Vĩnh Cư, Hoàng Ngọc Hiến, Lưu Đức Trung và Trần Đình Sử, xuất bản bởi Nhà xuất bản Giáo dục vào năm 1998, trang 23-29.
– Phương thức biểu đạt: Văn bản Âm mưu và tình yêu có phương thức biểu đạt là tự sự & biểu cảm.
– Bố cục bài Âm mưu và tình yêu gồm 2 phần:
+ Phần 1: Hồi I – Sự lo lắng của vợ chồng nhạc sĩ Min-le và tâm trạng của Luy-dơ.
+ Phần 2: Hồi II – Âm mưu của tể tướng và sự đau khổ của Phéc-đi-năng.
– Giá trị nội dung: Âm mưu và tình yêu là bằng chứng tố cáo chế độc phong kiến mạnh mẽ nhất của Sile. Xung đột của vở diễn được hình thành trên sự xung đột giữa tình yêu trong sáng, lãng mạn của một đôi trai tài, gái đẹp cùng những âm mưu đen tối, độc ác của triều đình phong kiến và lũ quan liêu.
– Giá trị nghệ thuật:
+ Tác giả sử dụng ngôn từ với tính chất khốc liệt, quyết chiến ngày càng lớn dần khiến mức độ kịch tính và xung đột lên đến đỉnh cao.
+ Nghệ thuật xây dựng kịch tính được thể hiện rõ thông qua từng bước tạo dựng tình huống truyện.
3.2. Tìm hiểu chi tiết:
Mâu thuẫn – xung đột kịch:
– Xung đột cha – con, bắt nguồn từ bắt nguồn từ một mâu thuẫn sâu xa, lớn lao, toàn diện hơn được khái quát bằng hai từ âm mưu và tình yêu:
Cuộc đối đầu giữa cha – người tể tướng, một minh chứng rõ ràng cho tầng lớp quý tộc cổ điển, thường được miêu tả là thối nát, tàn nhẫn và đầy xấu xa, luôn luôn có nhận thức sâu rộng về vị trí và quyền lực, so sánh với con trai – Fecđinăng, một biểu tượng của tầng lớp thanh niên quý tộc và tư sản tiến bộ, giàu trí tưởng tượng, sôi nổi và trung thực.
= > Đây là là xung đột giữa cái ác và cái thiện, và cao hơn là xung đột giữa ý thức hệ phong kiến lỗi thời, trì trệ với ý thức hệ của các lực lượng tiên tiến trong thế kỉ ánh sáng.
– Diễn biến của xung đột:
+ Cao trào: Fecđinăng đòi giết Luizơ, nhưng tể tướng không sợ mà vẫn thách thức: “Đâm đi, nếu mũi kiếm của mày còn đủ nhọn”
+ Đột biến: Fecđinăng tuyên bố phơi bày bí mật của tể tướng.
+ Mở nút: Tể tướng quyết định không ra lệnh bắt giữ Luizơ một cách dứt khoát: “Buông con bé ấy ra.” Các giai đoạn phát triển của vở kịch được tập trung trong những đoạn văn ngắn. Nghệ thuật xây dựng sự căng thẳng, một trong những yếu tố thể hiện sự tài năng diễn xuất của Sile, được khai thác tối đa ở mỗi giai đoạn xây dựng nhân vật. Đầu tiên, đó là cách sắp xếp vị thế và sức mạnh của hai phe. Tình huống xung đột hiển thị sự đông đảo của các nhân vật xuất hiện cùng lúc, tạo ra hai phe đối lập không cân sức. Nếu phe Chính nghĩa bao gồm cha, quận công, và các quan viên triều đình, đám đông thì phe tình yêu lại gồm con, người dân và một người kiếm của Fecđinăng. Sự chênh lệch về thế lực giữa hai phe đã làm gia tăng sự đối đầu mạnh mẽ.
+ Đỉnh điểm của xung đột: Sự dữ dội của xung đột cũng được gây nên bằng những pha (phối hợp các hành động) khác nhau, tăng dần mức độ quyết chiến. Lúc đầu, Fecđinăng (chắc vẫn đang lưỡng lự trong cuộc xung đột với cha) đã chỉ dùng mũi kiếm ngăn cản, kế đến, khi mức độ nghiêm trọng của xung đột tăng, chàng xoay mũi kiếm đâm trọng thương vài nhân viên pháp đình. Không thể ngăn cản được mức độc khủng khiếp và dữ dội của tể tướng đâm mũi kiếm vào Luizơ, để rồi cái chết của chàng làm tể tướng sợ hãi.
Ngôn ngữ và thái độ của nhân vật trong xung đột kịch:
– Ngôn ngữ nhân vật cũng được làm tăng thêm mức độ căng thẳng:
+ Đầu tiên, tể tướng không nói trực tiếp với Fecđinăng mà chỉ ra lệnh càng sục sôi, tức giận với lũ nhân viên triều đình: “Chúng bây giúp đỡ tao một tay. Bắt lấy nó. .. tao phải lặp lại mệnh lệnh của mày hay sao? … Quân đòi hèn “.
+ Còn Fecđinăng, đối với đám quan lại thì kiên quyết: “Chớ có đứa nào tìm cách động vào nàng. .. Thề độc có tử thần cùng tất cả mọi loài ma quỷ, lùi lại! “,nhưng đối với cha lúc đầu còn nhún nhường, van xin. ..” Xin cha hãy nghĩ đến bạn thân cha, cha ơi, đừng dồn ép con thêm nữa”. Trọng lượng lời van xin tăng lên: “Đừng dồn ép con đến chỗ cùng đường cha ơi!”.
+ Trong khi tể tướng nói chuyện thẳng thắn với Fecđinăng: “Tao muốn biết liệu cha tao có bị nếm nhát gươm này không?” thì Fecđinăng cay đắng thốt lên: “Thượng đế đã nhầm, đã lầm, đưa thằng đao phủ hèn hạ lên làm tể tướng mạt hạng”. Lời nói đối nghịch nhau gay gắt: “Lôi nói đi/Cha vẫn kiên quyết ư? Lôi nói đi/cha vẫn kiên quyết ư? Lôi nó đi/Thà tôi cắm thanh gươm này lên đầu vợ tôi còn hơn “.
=> Ngôn ngữ nhân vật được đẩy tăng lên mức độ gay gắt, đưa đến xung đột lên mức cao trào với những lời nói liên tục, với mức độ gay gắt, quyết liệt ngày càng tăng dần.
– Thái độ của hai nhân vật chính cũng tăng lên mức độ gay gắt:
+ Tể tướng từ sợ hãi tới sục sôi tức giận, nóng nảy, hung hăng rồi như thể bị sét đánh.
+ Fecđinăng từ đe doạ đến van xin, kiên quyết rồi ghê gớm.
=> Mỗi pha hành động, ngôn ngữ và tâm trạng nhân vật được dẫn dắt khôn khéo, hợp nhịp, uyển chuyển, làm xung đột kịch ngày càng gay gắt, chi phối hành vi và sự kiện, làm các nhân vật phải bộc lộ rõ nét cá tính.