Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là 2 nhà văn có những nét giống và khác trong phong cách nghệ thuật đã có những đóng góp không nhỏ để tạo nên sự phong phú, đa dạng mà vẫn thống nhất của nền văn học dân tộc. Để hiều rõ hơn phong cách nghệ thuật của hai nhà văn, mời các bạn tham khảo bài viết "So sánh giữa Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường" dưới đây.
Mục lục bài viết
1. So sánh giữa Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường chi tiết:
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đều là những tên tuổi lớn của văn học Việt Nam và bài viết của họ thường mang đậm tình cảm quê hương, nhấn mạnh vào vẻ đẹp của cảnh vật và con người miền Nam Việt Nam. “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường là những tác phẩm xuất sắc, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật và cái nhìn sáng tạo độc đáo của mỗi nhà văn. Cả hai tác phẩm đều phản ánh sự tài hoa của các tác giả trong việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh để truyền đạt những trải nghiệm, cảm xúc về sông nước miền Nam. Đặc biệt, cả hai nhà văn đều có khả năng nhìn nhận cuộc sống, con người và cảnh vật với góc độ đặc biệt, thể hiện vẻ đẹp của hiện thực cuộc sống từ phương diện văn hóa và thẩm mỹ.
Nguyễn Tuân – một trong những nhà văn nổi tiếng sau cách mạng, đã thể hiện sự tình tế và nhạy bén trong việc miêu tả sông Đà qua tùy bút “Người lái đò Sông Đà”. Các đặc điểm tự nhiên của sông như dòng chảy êm đềm và những bức tranh hùng vĩ quanh sông đã được Nguyễn Tuân truyền đạt với sự duy mỹ và tình cảm. Còn Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà thơ và nhà văn với tầm ảnh hưởng lớn đã khám phá vẻ đẹp của dòng sông không chỉ qua hình ảnh hùng vĩ mà còn qua những câu hỏi triết học sâu sắc trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Sự tò mò về việc đặt tên cho sông không chỉ là một câu hỏi về ngôn ngữ mà còn là một cách nhìn nhận văn hóa và tâm lý con người. Cả hai tác giả đều đã góp phần làm phong phú thêm di sản văn hóa Việt Nam với những tác phẩm nghệ thuật tinh tế và sâu sắc về cảnh vật và con người miền Nam.
Dòng sông Đà trong bức tranh của Nguyễn Tuân không chỉ là một phần của cảnh vật tự nhiên mà còn trở thành một nhân vật có linh hồn, có tính cách. Sự ví von sáng tạo khi so sánh sông Đà với “sợi dây thừng ngoằn ngoèo” không chỉ tạo ra một hình ảnh mới mẻ và độc đáo mà còn làm tôn lên vẻ dễ thương, đáng yêu của con sông. Hình ảnh sông Đà như áng tóc trữ tình, ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng ba, tất cả tạo nên một bức tranh hùng vĩ và lãng mạn. Chất thơ của sông Đà được Nguyễn Tuân chuyển tải không chỉ qua hình dáng mềm mại mà còn qua sắc nước sông. Việc miêu tả màu xanh ngọc bích của nước sông Đà trong làn mây mùa xuân hay màu đỏ rực rỡ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa mùa thu, tạo nên những hình ảnh tinh tế và lãng mạn, đồng thời phản ánh sự đa dạng và phong phú của thiên nhiên Tây Bắc. Như một người hướng dẫn du lịch văn hóa, Nguyễn Tuân đưa người đọc qua những bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, nhưng cũng chứa đựng nét hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Sự quan sát và miêu tả của ông không chỉ là về cảnh vật, mà còn là về con người và văn hóa của miền Tây Bắc, đặc biệt là người lái đò Sông Đà.
Cuộc vượt thác sông Đà do Nguyễn Tuân hư cấu trong tác phẩm không chỉ là một tình tiết mạo hiểm hồi hộp, mà còn là cơ hội để tác giả đề cao tài năng và sự tự do của người lái đò. Trước sức mạnh của sông Đà, người lái đò không chọn con đường dễ dàng, mà lại tự tin, hiên ngang vượt qua thách thức và tạo ra một bức tranh đẹp về sự tự do và tinh thần phiêu lưu. Từ những chi tiết nhỏ như hình ảnh, màu sắc và những tình tiết mạo hiểm, Nguyễn Tuân đã tạo ra một bức tranh hùng vĩ và phong cách, làm tôn lên vẻ đẹp của sông Đà và những con người sống bên cạnh nó.
Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một tác phẩm xuất sắc với góc nhìn văn hóa thẩm mỹ độc đáo về sông Hương và Huế. Nhà văn đã biến dòng sông trở thành một nhân vật có tâm hồn với những đặc điểm và phẩm chất con người. Sông Hương không chỉ là một dòng nước, mà còn là “người mẹ phù sa” của một vùng văn hóa, có tính cách “phóng khoáng và man dại”, nhưng cũng đầy dịu dàng và trí tuệ. Góc độ thẩm mỹ của Hoàng Phủ Ngọc Tường khiến cho sông Hương trở nên hùng vĩ và duyên dáng. Tác giả nhấn mạnh sự đa dạng của sông Hương khi miêu tả nó ở thượng nguồn Trường Sơn, nơi nó có dòng chảy mãnh liệt “cuộn xoáy như những cơn lốc vào đáy vực bí ẩn”. Tuy nhiên, khi đi qua lòng Trường Sơn, sự hung bạo của sông đã chuyển thành sự dịu dàng và phóng khoáng, hóa thân thành một cô gái “phóng khoáng và man dại” đã chinh phục rừng già và được ban tặng “tâm hồn tự do và trong sáng”. Góc độ này cũng nhấn mạnh đến những đặc điểm văn hóa của sông Hương, với những bờ bãi xanh biếc, những lăng mộ kiêu hãnh của triều Nguyễn, và âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ. Sông Hương trở thành biểu tượng của văn hóa Huế, một phần không thể thiếu của thành phố này.
Bên cạnh đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn diễn đạt sự kỳ vọng và hứng thú của những người viễn du khi đến Huế. Sự mơ màng trong sương khói khi sông Hương rời xa thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ tạo nên bức tranh tinh tế và lãng mạn về đất đỏ Huế. Tính “Uyên bác” là điểm chung thứ hai giữa Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cả hai nhà văn đều thể hiện sự uyên bác thông qua việc hiểu biết sâu rộng nhiều lĩnh vực và có khả năng cung cấp kiến thức đa dạng cho độc giả.
Nguyễn Tuân thường vận dụng uyên bác trong việc miêu tả hiện thực từ nhiều góc độ khác nhau. Trong “Người lái đò Sông Đà,” ông sử dụng kiến thức từ nhiều ngành nghệ thuật như điện ảnh, hội họa, kiến trúc và ngành quân sự, võ thuật, thể dục thể thao. Điều này giúp tạo ra một bức tranh đa chiều về tính cách của dòng sông. Ông mô tả màu nước sông Đà như kiến thức của ngành hội họa, sử dụng kiến thức về thạch đồ trận và thiên nhiên Tây Bắc để tạo nên hình ảnh của dòng sông. Việc áp dụng tri thức của nhiều lĩnh vực giúp tác phẩm trở nên phong phú và hấp dẫn. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thể hiện tính “Uyên bác” thông qua việc sử dụng kiến thức đa dạng từ nhiều lĩnh vực trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông.” Ông khéo léo kết hợp tri thức địa lí, lịch sử và văn hóa để xây dựng hình tượng sông Hương. Sự hiểu biết sâu rộng về thành phố Huế, kết hợp với khả năng quan sát tinh tế, giúp ông mô tả một cách sống động và sinh động về vẻ đẹp của sông Hương.
Cả hai tác giả đều chứng minh tính “Uyên bác” trong cách họ sử dụng kiến thức đa dạng và chiều sâu từ nhiều lĩnh vực khác nhau để làm phong phú và đa chiều hóa tác phẩm của mình, từ đó tạo nên những tác phẩm văn hóa đặc sắc và giàu ý nghĩa. Vẻ đẹp văn hóa của sông Hương, trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường, là một phản ánh của những tri thức đa dạng về thành phố Huế, từng là trung tâm của triều đại Nguyễn. Sông Hương được xem là nguồn cảm hứng không ngừng cho nghệ thuật với những liên tưởng độc đáo. Nhà văn liên kết sự hiện thực văn hóa của sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế, cho rằng nền âm nhạc này đã “được sinh thành trên mặt nước dòng sông này”. Sông Hương đồng thời liên quan đến những giai điệu quen thuộc, như quãng đời của Nguyễn Du lênh đênh trên sông, hoặc âm nhạc Tứ đại cảnh mô tả sự thanh khiết và hùng vĩ của sông.
Sông Hương không chỉ là một dòng sông thuần túy về văn hóa, mà còn là nguồn cảm hứng cho nghệ thuật. Nhà văn mô tả sự độc đáo và không lặp lại của sông Hương trong cảm hứng của nghệ sĩ. Sự đa dạng và không ngừng thay đổi của sông Hương là nguồn cảm hứng bất tận cho nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm không ngừng đổi mới và phong phú.
Vẻ đẹp lịch sử của sông Hương được tạo nên thông qua sự liên kết sâu sắc với những sự kiện quan trọng của xứ Huế và đất nước. Sông Hương trở thành nhân chứng của những thời kỳ lịch sử quan trọng, từ thời kỳ áo vải của Quang Trung, cách mạng tháng Tám, đến sự rung chuyển của Mậu Thân. Sự gắn bó của sông với những sự kiện này làm cho nó trở thành một phần quan trọng của lịch sử anh hùng và bi tráng của Huế và cả nước. Trong khi đó, điểm khác biệt giữa sông Hương và sông Đà của Nguyễn Tuân là cách nhà văn thể hiện cảm nhận về độ dữ dội và tuyệt mĩ của thiên nhiên. Nguyễn Tuân tập trung vào tính chất hung bạo của sông Đà, trong khi Hoàng Phủ Ngọc Tường nhấn mạnh sự độc đáo và đa chiều của sông Hương trong cảm hứng nghệ thuật và lịch sử.
Trong “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân, nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ mạnh mẽ để miêu tả sự hung bạo của sông Đà. Đá và nước sông Đà, đều được xem xét dưới góc độ đặc biệt và khắc nghiệt. Với sự khắc nghiệt trong từng đường nét, trở thành biểu tượng của sức mạnh tự nhiên. Sự tương tác giữa đá và nước tạo nên hình ảnh kinh hoàng của thác nước và sóng biển, mô tả bằng những từ ngữ đầy sức mạnh và hung dữ.
Sự kết hợp giữa đá và nước tạo ra những hình ảnh sống động và rùng rợn, như những con sóng kinh hoàng và tiếng nước réo rùng rợn. Mô tả về thác nước cũng làm nổi bật sự tàn bạo của sông Đà, với âm thanh đầy ám ảnh và hình ảnh của những đám mây nước phun lên cao như lễ hội linh thiêng, mặc dù thực tế lại là biểu hiện của sức mạnh tự nhiên đáng sợ.
Ngược lại, ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, ngòi bút của ông trở nên trữ tình và lãng mạn. Sự soi bóng tâm hồn giàu trí tưởng tượng lãng mạn của ông mô tả Sông Hương như một cô gái phóng khoáng và man dại, một người mẹ phù sa của một vùng văn hóa và thậm chí là một người gái đẹp nằm ngủ giữa cánh đồng hoa dại.
Cả hai nhà văn đều truyền đạt sự tình cảm mạnh mẽ của họ đối với quê hương và sông nước. Trong trường hợp của Nguyễn Tuân, đó là sự sợ hãi và kinh sợ trước sức mạnh tự nhiên của sông Đà. Trong trường hợp của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đó là sự trìu mến và say mê đối với vẻ đẹp trữ tình và lịch sử của Sông Hương và thành phố Huế. Cả hai đều đã tạo ra những tác phẩm nghệ thuật độc đáo và phong cách, làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc.
2. So sánh giữa Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường hay nhất:
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật tức là phải có nét gì đó rất riêng biệt mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình. Phong cách văn học là một yếu tố quan trọng và góp phần không nhỏ trong quá trình định giá tác giả, tác phẩm đó. Bởi thế mỗi nhà văn, nhà thơ phải tạo cho mình một nét riêng không thể trộn lẫn, đem đến cho người đọc một sự mới lạ mà khi nhìn vào những tác phẩm ấy độc giả sẽ biết ngay đó là sản phẩm của tác giả nào. Và Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là hai tiêu biểu cho điều đó mà có lẽ nổi bật nhất trong việc làm nên phong cách của các nhà văn là hai bài Tùy bút “Người Lái Đò Sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.
Thật vậy, “phong cách là cái còn lại hoặc hạt nhân mà sau khi từ nhà văn chúng ta bóc đi những cái không phải của bản thân anh ta, và tất cả những cái anh ta giống người khác”. Nói cách khác đi, phong cách nghệ thuật của Nhà văn là nét riêng biệt, độc đáo của nhà văn ấy, trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống thể hiện trong tất cả các yếu tố nội dung và hình thức của từng tác phẩm cụ thể. Chẳng hạn, đối với người cha để của “Người Lái Đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân mang một phong cách uyên bác, tài hoa không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bổn bể nhằm tìm ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động lòng người đọc nhất. Ngược lại nét đặc sắc trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường lại là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều, được tổng hợp từ cuốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí. Hai nhà văn mang trong mình hai phong cách khác nhau, nhưng tuy nhiên vẫn có những nét chung mà độc giả dễ dàng nhận thấy. Xuyên suốt hay bài “Người Lái Đò Sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, chúng ta thấy được điểm giống nhau trước hết thể hiện qua chất trí tuệ uyên bác.
Nếu như Nguyễn Tuân có khả năng vận dụng trí tuệ của nhiều ngành, nhiều nghề khác nhau trong khi miêu tả về đối tượng sáng tác của mình, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy. Điều đó thể hiện qua cảnh con sông Đà hung bạo với những trận thủy chiến của người lái đò, đã được Nguyễn Tuân ghi lại bằng những tri thức về điện ảnh. “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền”. Cho đến “bị vứt vào một cái cốc pha lê nước, khổng lồ vừa rút lên, cái gậy đánh phên”, về địa lý, về thể dục thể thao “hàng tiền vệ, có hai hòn canh, một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa…”, về quân sự “vòng đấu vừa rồi nó mở ra năm cửa trận, có 4 cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông…”, về võ thuật “đánh đòn chả đánh đến ầm vào chỗ hiểm”.
Đến với “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường nhà văn đã cung cấp cho người đọc một lượng kiến thức phong phú, đa dạng về sông Hương. Nhờ đó mà chúng ta có cái nhìn sâu sắc, toàn diện về vẻ đẹp của sông Hương. Dưới góc độ địa lý, tác giả đã cung cấp cho ta những kiến thức cơ bản về thủy trình của dòng sông kéo dài suốt từ “Cung Thượng Lưu, chảy qua thành phố Huế, vòng về hướng Đông Bắc để đi ra biển”. Ở phía thượng nguồn sông Hương mang vẻ đẹp hùng vĩ, “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt, qua những ghềnh khác cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, “phóng khoáng và man dại” giống như một cô gái Di gan thích nhảy múa, ca hát với một vẻ đẹp tự nhiên và trong sáng, chảy qua rừng núi về đến đồng bằng sông Hương lại trở nên dịu dàng. “Uốn những đường cong dịu dàng”, “dòng sông mềm đi như tấm lụa”, “êm đềm trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành, quách”.
Và để nhân cách hóa lên nhà văn đã hình dung dòng chảy sông Hương giống như một cuộc hành trình tìm kiếm có ý thức của người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa về đến nơi gặp người tình mong đợi và dòng chảy của sông Hương lúc này đã biến thành những đường cong mềm mại, quyến rũ của một người gái đẹp. Khi vào giữa lòng thành phố Huế, dòng sông lại trở nên tĩnh lặng “trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chí là một mặt hồ yên tĩnh”. Điều này đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường lý giải một cách độc đáo về dòng chảy của sông Hương dưới góc độ địa lý. Khi vào đến thành phố Huế sông Hương chia thành nhiều nhánh nhỏ, lại bị hai hòn đảo chặn nhanh trên dòng sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước. Khi đang xuôi dần về cồn Hến, nằm mơ màng thì thật bất ngờ khi rời khỏi thành phố Huế sông Hương đã “đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt Sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ”.
Thêm vào đó dòng chảy của sông Hương còn gắn liền với hàng loạt những địa danh quen thuộc của xứ Huế. Như Hòn Chén, Nguyệt Biều, vọng Canh, Tam thai, Lưu Bảo. Khiến cho dòng chảy của sông Hương không hề đơn điệu, tẻ nhạt mà vô cùng sống động. Đồng thời, khẳng định mối quan hệ không thể tách rời giữa sông Hương và Huế. Dưới góc nhìn lịch sử Hoàng Phủ Ngọc Tường lại gọi sông Hương là “trang sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc” đã gợi lên vẻ đẹp của sông Hương. Theo nhà văn trong các dòng sông đẹp trên thế giới chỉ có sông Hương là con sông chảy duy nhất trọn vẹn trong lòng một thành phố và chính dòng chảy đặc biệt đó của sông Hương đã khiến nó trở thành một chứng nhân lịch sử ghi dấu lại toàn bộ lịch sử của xứ Huế. Tác giả đã có cái nhìn tận sâu về quá khứ, để thấy được những đóng góp to lớn của sông Hương trong việc làm nên những trang sử hào hùng của xứ Huế, suốt từ thời các vua Hùng dựng nước, giữ nước, đến tận cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ vĩ đại, và Sông Hương cũng chịu tổn thất không nhỏ trong việc làm nên những trang sử hào hùng đó. Và quả thực sông Hương đã biến đổi mình là một chiến công khi tổ quốc cần, đất nước kêu gọi.
Nhà văn còn trích dẫn câu chuyện “tháng trước tôi được dịp có mặt trong cuộc tiếp đón ở thành ủy Huế chào mừng đoàn đại biểu hội nghị tổng kết chiến tranh tại thành phố, thay mặt Quân ủy Trung ương đồng chí Đại tướng phát biểu “lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ Quốc. Đồng chí nói đầu cúi xuống ngực hai bàn tay chắp lại trong cử chỉ kính cẩn của người già mắt ngấn lệ và người nghe tất cả đều lặng đi trong cảm xúc đột ngột của một lời thề”, điều đó lại một lần nữa đã khẳng định trong cảm nhận của biết bao con người Việt Nam nói chung, sông Hương giống như một người anh hùng khiến ta tôn kính, ngưỡng mộ nhưng cũng đầy cảm phục, xót xa trước những cống hiến vĩ đại và hi sinh thầm lặng của dòng sông trong việc làm nên lịch sử của xứ Huế nói riêng, lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung. Về văn học tác giả gọi sông Hương là “người mẹ phù sa của một cung văn hóa xứ sở” đã sản sinh, nuôi dưỡng, bồi đắp cho nền văn hóa Huế. Không những thế, sông Hương còn là dòng sông của âm nhạc “người tài nữ đàn lúc đêm khuya” đã gợi lên một nét văn hóa đặc sắc của xứ Huế. Người ta thường tổ chức các buổi trình diễn âm nhạc cổ điển Huế trên dòng sông Hương vào đêm khuya, nhà văn khẳng định “toàn bộ nền âm nhạc Huế được sản sinh trên mặt nước dòng sông này” và hơn thế sông Hương còn là dòng sông của thi ca “có một dòng thi ca về sông hương”, dòng sông không bao giờ tự lập lại trong cảm hứng của các nghệ sĩ.
Đặc biệt chung thứ 2 trong cách viết bút kí của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đó là một ngôn ngữ đầy chất thơ, đến với sông Đà người đọc cảm nhận được chất thơ qua con sông đà trữ tình. Thay vì bề mặt hung bạo, dữ tợn trên kia, thì giờ đây sông Đà lại được miêu tả một cách thơ mộng, đậm chất trữ tình, “con sông đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban hoa gạo tháng 2 và cuồn cuộn mây khói núi Mèo đốt Nương Xuân”. Rồi là “mùa xuân đồng xanh ngọc bích như nước sông Đà không xanh màu xanh cánh Hến của sông gấm, Sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt của một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ các màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ Thu về”. Không chỉ có con sông Đà và Sông Hương cũng hiện lên mang một chất thi qua những hình ảnh nhòe mờ sương khói, đậm chất Huế: “lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”. Những câu văn giàu hình ảnh, nhịp điệu trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt, qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, một loạt hình ảnh so sánh nhân cách hóa Sông Hương, khi lại là con người lãng mạn, trữ tình, lúc lại là cô gái di gan phóng khoáng, man dại, khi lại là người mẹ phù sa với vẻ đẹp dịu dàng, trí tuệ. Ngoài ra chất thơ còn toát lên từ cảnh tác giả điểm xuyết những câu ca dao, lời thơ của Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan vào trong bài Ký, “dòng sông trắng – lá cây xanh” hay “như kiếm dựng trời xanh”. Và còn thể hiện ngay ở nhan đề đầy bâng khuâng, man mát “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.
Cuối cùng, cả hai tác giả đều tập trung phát huy các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, trường liên tưởng, tưởng tượng phong phú… Khi miêu tả quãng mặt ghềnh hát gióng Nguyễn Tuân đã có sự so sánh, kết hợp nhân hóa thật thú vị khiến cho dòng sông trở thành một kẻ thù chuyên đi đòi nợ suýt, nham hiểm, hung bạo, tráo trở lúc nào cũng đi có thể tước đoạt mạng sống của con người. “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gầm ghê như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ người lái đò nào qua đó”. Hay đoạn miêu tả những hút nước sông Đà, trường liên tưởng của ông vô cùng phong phú. “nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc”, “nước ặc ặc lên như rót dầu sôi vào”. Đặc biệt nhất là âm thanh của thác nước sông đà, có lúc nó được nhân hóa thành một con người tráo trở, nham hiểm, đang trong cơn giận dữ với nhiều cung bậc, khi oán trách, khi van xin, khi khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Tiếng nước réo lại gần mãi, réo to mãi lên. “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, nối lại như van xin, khiêu khích giọng đàn mà chế nhạo”. Có lúc nó lại được động vật hóa thành tiếng lóng của một ngàn con trâu mộng. Tác giả đã dùng lửa để tả nước – hai sự vật vốn tương khắc nhau, hủy diệt nhau, nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân lửa lại hiếp sức cho nước, khiến sức nước trở nên dữ dằn vô cùng. “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vào rừng tre, nứa nuốt lửa, đang phá tuông tường lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Đến với Hoàng Phủ Ngọc Tường nhà văn đã dùng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, để nội tâm hóa hình dáng của dòng sông, biến nó thành “nỗi vấn vương”, “cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Nhờ đó ta không chỉ cảm nhận được dòng chảy của sông Hương một cách cụ thể, sống thực mà còn thấy nó hiện lên rất giống con người “mãi mãi chung tình với quê hương, xứ sở”. Đó là một vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, với những vẻ đẹp như triết lý, như cổ thi của một mảnh đất Cố Đô gắn liền với những lăng tẩm, Thành quách, in bóng giấc ngủ ngàn thu của những vua chúa Nguyễn. Những cách so sánh liên tưởng bất ngờ, sông Hương uốn hình một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến”.
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường có nhiều nét trong phong cách sáng tác giống nhau như vậy. Tuy nhiên giữa những điểm chung đó, khi bóc hết đi chúng ta lại thấy được cái riêng biệt, độc đáo trong mỗi bài thơ. Dưới con mắt quan sát của Nguyễn Tuân sông Đà không còn là một vật vô tri, vô giác hay một hình tượng thiên nhiên thuần túy, mà hiện lên như một con người với hai nét tính cách trái ngược nhau, vừa hung bạo, vừa trữ tình. Khám phá con người ở góc độ tài hoa, nghệ sĩ, hình tượng người lái đò trong cảm nhận của Nguyễn Tuân một người lái đò bình thường trên sông nước sông Đà, lại được miêu tả như một Dũng tướng tài năng, với một phong thái của người nghệ sĩ. Khác với Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại mang trong mình một phong cách viết kí kết hợp với nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều, hệ thống lập luận với các luận điểm, luận cứ được sắp xếp một cách logic, chặt chẽ theo dòng chảy của sông Hương từ phía thượng nguồn cho đến khi rời thành phố Huế, để đi ra biển. Thêm vào đó mỗi khi nói đến vẻ đẹp nào đó của sông Hương, tác giả lại đưa ra những so sánh, những ví dụ, những bằng chứng thuyết phục để làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương. Suy tư đa chiều thể hiện nhiều nhất trong cách ông cảm nhận về sông Hương, dưới nhiều góc độ lịch sử, địa lý, văn hóa để làm nổi bật vẻ đẹp phong phú, đa dạng của sông Hương. Suy tư đa chiều còn thể hiện ngay trong cách so sánh Sông Hương với những hình ảnh như người con gái đẹp, cô gái di gan, người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Tóm lại và dù có những nét tương đồng trong vốn tri thức, cách sử dụng ngôn từ nghệ thuật, nhưng khi bỏ qua tất cả những cái đó độc giả lại cảm nhận thấy những nét riêng biệt không thể trộn lẫn.
Có những sự khác nhau trên đều bắt nguồn từ các nguyên nhân, mà đầu tiên phải kể đến là do yêu cầu của văn chương, riêng mỗi tác giả có một phong cách tạo nên tên tuổi của tác giả, tác phẩm. Dòng chảy cuộc sống không bao giờ lặp lại, văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống, nên nó không thể không phản chiếu, lý giải, đánh giá, dự báo về những yếu tố mới mẻ đó. Phong cách văn học cũng nảy sinh do nhu cầu sáng tạo văn học, bản chất của văn học là sự sáng tạo sự sáng tạo, là yếu tố làm nên sức hấp dẫn sức sống lâu bền của văn học và phong cách văn học. Ta nhận diện được từng gương mặt tác giả, những điều độc đáo không lập lại ở họ, cũng qua phong cách nghệ thuật mà chúng ta nhận thấy được sự trưởng thành không chỉ của nhà văn, mà còn nhận thức được trình độ phát triển của một trào lưu văn học. Gương mặt chung của văn học dân tộc, trong từng thời đại phát triển và Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là hay minh chứng cho ý nghĩa đó. Thực sự đối với mỗi cá nhân khi đọc hai tác phẩm “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông” bất cứ ai khi đã hiểu rõ về hai tác giả kia thì không thể nhầm lẫn, mà đảo lộn ý chí hai tác phẩm với nhau được. Cũng như không thể lấy cái hung bạo của Sông Đà, để miêu tả sông Hương được và ngược lại cũng không thể miêu tả sông Đà dịu dàng man dại, phóng khoáng khi ở những trạng thái hung dữ như sông Hương được.
Như vậy tất cả các yếu tố và dẫn chứng trên, chúng ta thấy được phong cách viết kí của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó đồng thời cũng là sự tài hoa, thẩm mỹ mang đến giá trị độc đáo cho các tác phẩm, qua đây một mặt hiểu thêm về nghệ thuật viết kí của các tác giả, đồng thời mặt khác phải luôn nỗ lực rèn luyện vốn tri thức của bản thân, để hiểu được, cảm nhận được tất cả những gì mà tác giả muốn truyền đạt cho độc giả.
2. So sánh giữa Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường ấn tượng nhất:
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là hai nhà văn có phong cách riêng biệt, độc đáo, và sự nổi bật của họ thể hiện rõ trong hai tác phẩm “Người lái đò sông đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Bài “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông, nổi bật với sự độc đáo trong cách diễn đạt và quan điểm về cuộc sống. Trong bài viết này, Nguyễn Tuân tận dụng kỹ thuật tả cảnh một cách sống động, tạo nên hình ảnh chi tiết và chân thực về người lái đò, sông Đà, và cuộc sống xô bồ trên sông. Phong cách của ông được xây dựng thông qua sự kết hợp tài tình giữa lối viết phóng khoáng, hồi hợp và sự tinh tế trong sử dụng ngôn ngữ. Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, thông qua bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã tạo ra một phong cách văn học độc đáo. Trong bài viết, ông sử dụng ngôn ngữ trữ tình và thơ mộng để diễn đạt những suy nghĩ về tình yêu, cuộc sống và sự tự do. Câu chuyện về việc đặt tên cho dòng sông trở thành một phương tiện để nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tự do và cái mới mẻ trong văn hóa.
Cả hai tác phẩm của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đều phản ánh tầm quan trọng của việc tạo ra một phong cách văn hóa riêng, thể hiện qua cách họ sử dụng ngôn ngữ, tạo hình nhân vật và xây dựng không gian văn hóa. Sự sáng tạo và độc đáo trong cách họ nắm bắt và truyền đạt những ý nghĩa sâu sắc về cuộc sống là những điểm làm nên giá trị của nghệ thuật viết của họ.
Phong cách của mỗi nhà văn thường phản ánh đặc điểm riêng biệt, cá tính, và sự sáng tạo trong cách họ diễn đạt ý nghĩa về cuộc sống. Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là hai tác giả nổi tiếng với những phong cách văn hóa đặc sắc, rõ ràng hiện diện trong các tác phẩm “Người Lái Đò Sông Đà” và “Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông.”
Nguyễn Tuân, thông qua “Người Lái Đò Sông Đà,” thể hiện phong cách văn hóa uyên bác, tài hoa và mô phỏng phong cảnh cuộc sống với sự chi tiết và chân thực. Tác phẩm này phản ánh sự hỗn độn, đầy nghẹt thở của cuộc sống trên sông Đà và khám phá tinh thần và cảm xúc của người lái đò. Phong cách của Nguyễn Tuân còn phản ánh qua việc kết hợp linh hoạt giữa văn hóa, nghệ thuật và tri thức đa ngành. Ngược lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường, trong “Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông,” mang lại một phong cách văn hóa khác biệt. Ông kết hợp một cách tinh tế giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, sử dụng triết học, văn hóa, lịch sử và địa lý để truyền đạt những suy nghĩ về tình yêu, tự do và ý nghĩa của cuộc sống. Phong cách của Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự kết hợp độc đáo giữa sự sâu sắc và lãng mạn.
Cả hai tác giả đều có khả năng sử dụng rộng lớn kiến thức và kỹ thuật văn học để tạo ra những tác phẩm sáng tạo và ấn tượng. Dù có những khác biệt trong cách họ diễn đạt, cả hai đều là những bậc thầy của phong cách văn hóa, đóng góp vào sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam. Trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông,” Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ giới thiệu về sông Hương một cách đa chiều, mà còn khéo léo nhân cách hóa sông, biến nó thành một người con gái xinh đẹp với những nét tương đồng rất đặc sắc. Từ đỉnh nguồn ở Cung Thượng Lưu đến vùng đồng bằng, sông Hương như một cô gái Di gan, vừa mạnh mẽ vừa mơ màng, tươi trẻ và tự nhiên. Mô tả về sự “phóng khoáng và man dại” như cô gái đang nhảy múa giữa rừng núi, đặt lên sự hùng vĩ của sông.
Cuộc hành trình của sông Hương, như cuộc tìm kiếm của một người con gái, đẹp như mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa. Hình tượng này thể hiện sự tận hiến, mong đợi và nỗi lòng trông chờ của sông khi nó hành trình qua những cung đường khó khăn để gặp “người tình” ở cuối con đường. Sự nhân cách hóa này giúp độc giả không chỉ hiểu về vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương mà còn cảm nhận được tình cảm, tính cách và cảm xúc ẩn sau sự huyền bí của nó.
Đến thành phố Huế, sông Hương trở nên tĩnh lặng, yên bình như một mặt hồ. Tác giả giải thích điều này thông qua địa lý, mô tả về sự chia nhánh và hòn đảo chặn nhanh, tạo nên một không gian trầm lặng. Khi sông “đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố lần cuối,” tạo nên một cảm giác huyền bí, như sự quay trở lại và chấp nhận cuộc tình với thành phố một lần nữa. Dòng chảy của sông Hương không chỉ là một sự liên kết với những địa danh quen thuộc như Hòn Chén, Nguyệt Biều, Vọng Canh, Tam Thai, Lưu Bảo, mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa lớn lao về lịch sử và văn hóa của xứ Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường mô tả sự sống động và đa dạng của sông Hương thông qua những điểm đặc sắc này, làm cho nó trở nên sống động và phong phú hơn, không tẻ nhạt và đơn điệu. Dòng chảy của sông Hương gắn liền với những địa danh lịch sử và văn hóa, thể hiện sự phong phú và độc đáo của nền văn hóa Huế. Từ Hòn Chén đến Nguyệt Biều, từ vọng Canh đến Tam Thai, mỗi địa danh đều là một phần không thể tách rời của sự hiện diện của sông Hương. Mối liên kết này không chỉ là về địa lý mà còn là về tình cảm, là những trải nghiệm tâm linh độc đáo mà sông Hương mang lại cho người dân Huế.
Với góc nhìn lịch sử, sông Hương trở thành một chứng nhân lịch sử, ghi chép và chứng kiến toàn bộ sự huyền bí và vinh quang của xứ Huế. Sự đổi dòng của sông Hương, từ cung đường hùng vĩ đến sự tĩnh lặng trong thành phố Huế, được tác giả diễn giải thông qua địa lý, tạo ra một không gian yên bình, tĩnh lặng, và có phần huyền bí khi nó “đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố lần cuối.” Từ quan điểm lịch sử, sông Hương trở thành một nhân chứng, một chiến công khiến cho nó trở nên tôn kính và xứng đáng được ngưỡng mộ. Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã làm cho sông Hương chịu tổn thất, nhưng nó vẫn tiếp tục làm chứng nhân lịch sử, ghi chép những trang sử hào hùng của xứ Huế và dân tộc Việt Nam.
Về văn hóa, sông Hương không chỉ là một dòng sông mà còn là “người mẹ phù sa của một cung văn hóa xứ sở.” Tác giả đề cập đến sự sinh sản, nuôi dưỡng và bồi đắp nền văn hóa Huế. Sông Hương còn là dòng sông của âm nhạc, nơi mà người ta tổ chức các buổi trình diễn âm nhạc cổ điển Huế vào đêm khuya, tạo nên một không gian văn hóa đặc sắc. Nó cũng là dòng sông của thi ca, với nền âm nhạc và thi ca độc đáo mà không có dòng sông nào khác có thể lặp lại.
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chia sẻ một đặc điểm chung quan trọng trong cách viết bút ký của họ, đó là việc sử dụng một ngôn ngữ tràn ngập chất thơ. Chính nhờ vào ngôn ngữ đặc sắc này, họ đã mô tả không gian và bối cảnh một cách sống động, góp phần làm nổi bật tính độc đáo và đẹp đẽ của các con sông, như Sông Đà và Sông Hương, trong lòng đất nước. Đặc biệt, qua bút ký của Nguyễn Tuân, con sông Đà không chỉ là một dòng sông mạnh mẽ, hung dữ, mà còn trở nên trữ tình và thơ mộng. Ngôn ngữ của ông đã hóa giải bề mặt dữ tợn của sông, biến nó thành một nguồn cảm hứng vô tận, như áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc. Mỗi mùa trong bút ký của Nguyễn Tuân đều được miêu tả như một bức tranh thơ mộng, từ mùa xuân với hoa ban và hoa gạo, đến mùa thu với màu đỏ cuồn cuộn như da mặt của một người bầm đi vì rượu. Những hình ảnh tuyệt vời này tạo nên một trải nghiệm đọc đầy hấp dẫn và tinh tế, làm cho độc giả cảm nhận được sự huyền bí và đẹp đẽ của sông Đà.
Tương tự, Sông Hương trong bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng được tô điểm bởi ngôn ngữ trữ tình và hình ảnh thi vị. Sông Hương không chỉ là một dòng sông thông thường, mà còn trở thành một người phụ nữ, một người mẹ, và là nguồn cảm hứng vô tận cho văn hóa Huế. Hình ảnh của sông Hương trong bút ký không chỉ là các bối cảnh đẹp như tranh, mà còn là những trạng thái tâm hồn của một người phụ nữ, từ lãng mạn và trữ tình đến sức mạnh và độc lập. Sự mê đắm trong mô tả của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ giúp độc giả thấu hiểu vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương mà còn đưa họ vào những trạng thái tinh thần, làm cho trải nghiệm đọc trở nên sâu sắc và phong phú. Hai nhà văn còn sử dụng thêm các ca dao, lời thơ của những nhà thơ nổi tiếng như Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, để điểm xuyết thêm sự tinh tế và chất thơ cho bức tranh văn hóa và lịch sử mà họ mô tả. Nó không chỉ làm phong phú thêm ngôn ngữ mà còn thể hiện sự tôn trọng và kế thừa tinh thần văn hóa của thế hệ trước.
Với những nét đặc sắc này, Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm cho các bút ký của họ trở nên sống động, tinh tế và đậm chất thơ, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả về vẻ đẹp huyền bí và sức sống của các con sông. Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đều là những tác giả với khả năng sáng tạo vô song, đặc biệt là trong việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, trường liên tưởng, và tưởng tượng phong phú để mô tả và làm sống động hóa các yếu tố tự nhiên như sông Đà và sông Hương. Dưới bàn tay tài năng của họ, những dòng sông trở nên huyền bí, trữ tình, và thậm chí nhân hóa, nói lên ngôn ngữ riêng của mình về vẻ đẹp và sức sống của các dòng nước.
Nguyễn Tuân sử dụng so sánh và nhân hóa một cách tinh tế để mô tả sông Đà. Bằng cách này, ông biến sông thành một thực thể sống, mang theo những đặc tính nhân cách như sự tàn bạo, đòi nợ suốt, nham hiểm. Hình ảnh về nước sô đá, đá xô sóng, và sóng xô gió tạo nên một bức tranh huyền bí về sức mạnh và nguy hiểm của sông. Sự nhân hóa của sông Đà khiến cho nó trở nên sống động và độc đáo, giống như một nhân vật trong câu chuyện, đồng thời làm cho người đọc cảm nhận được sự kỳ bí và mạnh mẽ của tự nhiên. Nguyễn Tuân còn sử dụng trường liên tưởng và tưởng tượng phong phú để tạo ra các hình ảnh độc đáo và tinh tế về sông Đà. Việc so sánh nước với tiếng cửa cống bị sặc, hay âm thanh của thác nước được nhân hóa thành giọng của một con người đang tráo trở và nham hiểm, làm cho bức tranh về sông Đà trở nên phong phú và sâu sắc. Các mô tả về âm thanh, hình ảnh, và cảm nhận về sức mạnh của sông Đà là những yếu tố quan trọng giúp Nguyễn Tuân truyền đạt sự kỳ bí và tình cảm đối với con sông.
Hoàng Phủ Ngọc Tường, ngược lại, chủ yếu tập trung vào biện pháp nhân hóa để mô tả sông Hương. Sông Hương, trong bút ký của ông, trở thành một “người con gái đẹp,” “cô gái Di gan,” và “người mẹ phù sa.” Việc nhân hóa sông giúp ông truyền đạt không chỉ vẻ đẹp của nó mà còn tâm hồn và tính cách của một người phụ nữ. Việc tận dụng cảm nhận cá nhân và tâm lý của mình giúp Hoàng Phủ Ngọc Tường tạo ra một bức tranh đa chiều về sông Hương, từ vẻ ngoại hình bên ngoài đến nội tâm tinh tế và đa dạng. Cả hai tác giả đều thể hiện sự sáng tạo và tinh tế trong cách sử dụng ngôn ngữ và biện pháp nghệ thuật. Dù có những điểm chung trong việc nhân hóa và so sánh, nhưng mỗi tác giả lại đưa ra cái nhìn và trải nghiệm riêng biệt về thế giới tự nhiên, tạo ra những bức tranh văn hóa độc đáo và sâu sắc.
Sự khác nhau giữa phong cách viết kí của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường có nguồn gốc từ nhiều yếu tố, nhưng chủ yếu là do yêu cầu và đặc điểm riêng của văn chương, cũng như phong cách sáng tạo của từng tác giả. Một trong những nguyên nhân quan trọng là sự độc đáo và cá nhân của mỗi tác giả. Mỗi tác giả xây dựng phong cách của mình dựa trên sự sáng tạo và tạo nên một tên tuổi đặc biệt trong văn chương. Sự trải nghiệm cuộc sống và cái nhìn riêng biệt về thế giới xung quanh cũng góp phần quan trọng vào việc hình thành phong cách văn học của họ. Phong cách văn học là không ngừng trải nghiệm và phát triển. Nó phản ánh sự sáng tạo liên tục trong văn chương, là yếu tố làm nên sức hấp dẫn và sự sống động của văn học. Người đọc có thể nhận diện từng đặc điểm riêng biệt của tác giả thông qua phong cách nghệ thuật, làm nổi bật sự trưởng thành của cả một trào lưu văn học.
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường, qua những tác phẩm “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông,” là minh chứng rõ ràng cho những đặc trưng riêng của họ. Việc hiểu rõ về hai tác giả này giúp độc giả không chỉ nhận biết được phong cách của từng người mà còn tìm hiểu về sự đa dạng và phong phú của văn học Việt Nam.
Không thể nhầm lẫn giữa hai tác phẩm, và sự hiểu biết sâu rộng về tác giả giúp người đọc tận hưởng tốt hơn các tác phẩm văn học. Cảm nhận và hiểu biết sâu sắc này là cả một quá trình rèn luyện tri thức và lòng nhạy bén với nghệ thuật văn hóa, giúp độc giả kết nối mạnh mẽ với tác phẩm và tác giả.
THAM KHẢO THÊM: