Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ là hai tác phẩm thơ ca Việt Nam tiêu biểu. Cách khai thác và ý nghĩa mà thiên nhiên mang lại trong hai bài thơ lại có những nét tương đồng và khác biệt đáng chú ý. Dưới đây là bài phân tích so sánh thiên nhiên trong hai bài thơ Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ.
Mục lục bài viết
- 1 1. Dàn ý so sánh cảnh thiên nhiên trong bài Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ:
- 2 2. So sánh cảnh thiên nhiên trong bài Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ:
- 3 3. So sánh cảnh vật thiên nhiên qua 2 bài thơ Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ:
- 4 4. Những điểm cần chú ý khi so sánh cảnh thiên nhiên trong Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ:
1. Dàn ý so sánh cảnh thiên nhiên trong bài Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu về tác giả:
Quang Dũng (1921-1988) tên thật là Bùi Đình Diệm, sinh ra tại huyện Đan Phượng, nay là Hà Nội, là một người đa tài, đa nghệ.- Hàn Mặc Tử (1912-1940) tên thật Nguyễn Trọng Trí, quê gốc Quảng Bình, là nhà thơ Thơ mới giai đoạn 1932-1940
Giới thiệu tác phẩm:
- “Tây Tiến” được in trong tập “Mây đầu ô” và được Quang Dũng sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi ông rời binh đoàn Tây Tiến.
- “Đây thôn Vĩ Dạ” được in trong tập thơ “Điên”.
Giới thiệu đoạn thơ:
- Đoạn trích bài thơ “Tây Tiến” thuộc khổ thơ thứ 6 của bài thơ.
- Đoạn trích bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” thuộc khổ thơ thứ hai của bài thơ.
1.2. Thân bài:
Đoạn trích trong bài thơ “Tây Tiến” là khung cảnh Tây Bắc hoang sơ, thơ mộng và trữ tình.
- Trong sương khói của nỗi nhớ, Quang Dũng nhớ về một “buổi chiều sương ấy” một khoảng thời gian không được định hình rõ ràng nhưng dường như đã khắc sâu trong tâm khảm của nhà thơ hoài niệm.
- Quá khứ vang vọng trong những hình ảnh mơ hồ, chập chờn, hư ảo: “hồn lau nẻo bến”, “dáng người trên độc mộc”, “hoa đung đưa”.
- Cảnh hiện ra: tuy rất mong manh, không rõ nét nhưng gợi hình, thơ mộng, đậm chất thơ, lãng mạn của người lính Hà Thành: “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ/ Có nhớ dáng người trên độc mộc”.
- Những câu hỏi tu từ: “có thấy”, “có nhớ” ùa về như gợi lại biết bao kỉ niệm của một thời đã qua.
- Nhân hóa: Cây lau tưởng như vô tri cũng sống động. Phép nhân hóa có hồn đã làm cho thiên nhiên trở nên đằm thắm và lãng mạn hơn.
- Trí tưởng tượng của con người chập chờn trong kí ức nhà thơ. Thế ngồi “độc mộc” tạo nên hai cách hiểu: phải chăng đó là vẻ đẹp độc đáo của con người Tây Bắc, hay đó cũng là tư thế của người lính Tây Tiến trước thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên? Dù sao thì nét riêng trong thơ Quang Dũng vẫn luôn khắc sâu trong tâm trí độc giả, luôn hào hoa và uyển chuyển, tài hoa và khôn khéo.
- “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” hình ảnh tâm đắc: bông hoa giữa dòng là nơi gặp gỡ của biểu hiện tình yêu của tâm hồn người lính trẻ Hà Thành và vẻ đẹp nên thơ của cảnh vật.
→ “Hoa đong đưa” và “trôi dòng nước lũ” là hình ảnh không thể có trong hiện thực nhưng lại có ý nghĩa rất lớn khi đặt giữa dòng cảm hứng trữ tình luân chuyển của bài thơ.
- Sử dụng bút pháp nghệ thuật lãng mạn và nghệ thuật nhân hóa, tác giả đã vẽ nên một nét vẽ truyền thần thu được vẻ đẹp của Tây Bắc và gieo vào lòng người tình yêu cháy bỏng.
- Lối viết đẹp lãng mạn, phép nhân hóa, phép điệp ngữ nhuần nhuyễn hòa quyện với nỗi nhớ da diết sâu xa của nhà thơ đối với đồng bào và thiên nhiên Tây Bắc. Tất cả tạo nên một điểm sáng cho Tây Tiến là tâm hồn người lính tận tụy vì nước.
Đoạn thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là cảnh sông Huế qua cảm quan trữ tình của cái tôi, tràn đầy tâm trạng.
- Khổ thơ thứ nhất nói về khung cảnh thôn Vĩ, khi “nắng mới lên”… Ở khổ thơ thứ hai, Hàn Mặc Tử gợi nhớ về vùng sông nước rộng lớn, một không gian nghệ thuật đầy hoài niệm. Có gió nhưng “gió theo chiều gió”, có mây nhưng “mây đi lối mây”.
- Cách ngắt nhịp 4/3 với hai câu đối nhỏ gợi lên một không gian mây gió bị chia lìa, như một nỗi bất hạnh đầy ám ảnh.
- Các từ “gió” và “mây” được lặp lại hai lần ở mỗi đoạn gợi tả một bầu trời bao la rộng mở.
- Không có một bóng người xuất hiện trước cảnh gió mây ấy. Mà chỉ có hình ảnh “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Khung cảnh chứa đựng nhiều cảm xúc. Dòng sông Hương lững lờ trôi, trong tâm tưởng nhà thơ đã trở thành “dòng sông buồn” càng tạo thêm mơ hồ, xa vắng.
- Hai câu thơ 14 chữ với bốn chất liệu thơ (gió, mây, sông nước, hoa bắp) đã hội tụ hồn thôn Vĩ. Ngoại cảnh nổi bật, u ám để diễn tả một trạng thái tâm hồn tĩnh lặng: buồn sâu thẳm, vắng vẻ, hiu quạnh.
- Hai câu thơ tiếp: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?”
- Chữ “có” cuối câu 3 gieo vần với chữ “có” đầu câu 4 như lời thủ thỉ hỏi “đêm nay có chở trăng về kịp không?”
- “Thuyền ai” gợi bao bỡ ngỡ, bơ vơ, quen mà lạ, gần mà xa.
- Cả thơ Hàn Mặc Tử đều tả trăng. Ánh trăng đổ xuống sông, thuyền và bến. Thuyền không chở người, chỉ chở trăng, chở đường dài bao năm chờ đợi.
- Đằng sau những cảnh gió, mây, con thuyền, bến đợi và dòng sông trăng: cảnh vật kì ảo gợi cảm giác bâng khuâng, nhớ nhung của cảnh và người xứ Huế.
Điểm giống:
-
Cả hai đoạn thơ đều là tình cảm của cái tôi trữ tình đối với cảnh vật thôn quê.
-
Cái tôi lãng mạn là cái chắp cánh cho cảnh vật thêm nên thơ, mộng ảo, rực rỡ hơn.
-
Cả hai bài thơ đều thể hiện tài năng sáng tác của hai nhà thơ.
Điểm khác:
-
Đoạn trích trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” mang màu sắc của sự chia ly, nhớ nhung và nhớ mong.
-
Khổ thơ “Tây Tiến” mang nỗi nhớ chất chứa với Tây Bắc, nỗi nhớ thời kháng chiến.
Giải thích sự giống và khác nhau:
-
Cả Quang Dũng và Hàn Mặc Tử đều là những nhà thơ tài hoa, lãng mạn.
-
Mỗi nhà thơ đều có một cảm xúc riêng khi đứng trước cảnh sông nước.
-
Hoàn cảnh sáng tác: Hoàn cảnh riêng của mỗi nhà thơ và hoàn cảnh thời đại đó để lại dấu ấn trong cảm xúc và hình tượng thơ của mỗi nhà thơ.
1.3. Kết bài:
Hai câu thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của hai nhà thơ ở hai thời điểm, hoàn cảnh khác nhau.
Hai bài thơ cho thấy tài năng nghệ thuật của Hàn Mặc Tử và Quang Dũng.
2. So sánh cảnh thiên nhiên trong bài Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ:
Hàn Mặc Tử và Quang Dũng là những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Hai bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) và “Tây Tiến” (Quang Dũng) là hai bài thơ lớn để lại dấu ấn về tấm lòng yêu quê hương đất nước của người nghệ sĩ sáng tạo. Đặc biệt là cảm hứng trước vẻ đẹp của thiên nhiên, cả hai nhà thơ đã có một cách thể hiện khác nhau nhưng thống nhất với cảm hứng sáng tạo và một quan điểm nghệ thuật hết sức sắc sảo. Cả “Tây Tiến” và “Đây thôn Vĩ Dạ” đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, mang cái hồn của đất trời.
Đoạn thơ của bài thơ “Tây Tiến” là cảnh sông nước miền Tây Bắc hoang sơ, thơ mộng và trữ tình.
“Tây Tiến” là một trong những bài thơ tiêu biểu của đời thơ Quang Dũng, tập trung những nét độc đáo nhất trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ tài hoa. “Tây Tiến” cũng được coi là một trong những bài thơ hay nhất trong số những bài viết về người lính thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Với sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, bài thơ đã trở thành một khúc bi tráng, phản ánh chân thực cuộc đời chiến sĩ của nhà thơ Tây Tiến, chiến đấu gian khổ, hy sinh anh dũng và vẻ đẹp hào hùng, bất khuất. Cảm hứng lãng mạn thường đề cao cái tôi cảm xúc, một hiện thực thơ ca phi thường, mãnh liệt, đẹp đẽ, thường được lý tưởng hóa. Cảm hứng lãng mạn luôn sử dụng lối viết tương phản để tạo ra những hình ảnh tương phản, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Cảm hứng bi tráng là sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp hiện thực đã tạo nên chất bi tráng đặc biệt cho bài thơ, mang màu sắc và âm hưởng mạnh mẽ, hào hùng trước sự hy sinh của người lính Tây Tiến.
Binh đoàn Tây Tiến đã đi qua nhiều vùng Tây Bắc, mỗi vùng đều có một vẻ đẹp riêng khó quên. Nếu như Sài Khao có sương nhiều bao trùm cả đoàn quân Tây Tiến, Mường Hịch có tiếng cọp dọa người, vùng Mai Châu có hương vị xôi nếp quyến rũ, thì Châu Mộc cũng rất thơ mộng, trữ tình. Trong sương mù của nỗi nhớ, Quang Dũng nhớ về một “buổi chiều sương” một thời gian không rõ nhưng dường như đã khắc sâu trong tâm trí nhà thơ như nỗi nhớ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Bốn câu thơ theo dòng ký ức “trôi” về miền đất lạ đó là tỉnh Sơn La với những bãi cỏ bạt ngàn, là bản làng Pha Luông sôi động của người Thái. Hình ảnh “người đi” trong “buổi chiều sương” là một ý thơ vô cùng độc đáo bởi vì sương mù này cho chúng ta biết rằng đây là một cảnh trong quá khứ. Cũng trong cảnh sông nước ấy, người lữ khách như chèo thuyền ngược dòng ký ức để trở về với Châu Mộc đầy hoài niệm. Với tâm hồn của một nhà thơ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận được vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “chiều sương” và “hồn lau nẻo bến bờ”. Sương trắng bao phủ núi rừng chiến khu càng làm cho cảnh và người thêm thơ mộng, trữ tình. Từ “ấy” gieo vần với từ “thấy” tạo nên một vần thất ngôn giàu âm điệu, như tiếng nói khẽ hỏi lòng “có thấy không”.
Quá khứ vang vọng trong những hình ảnh mơ hồ, chập chờn, huyền ảo: “hồn lau nẻo bến bờ”, “dáng người trên độc mộc”, “hoa đung đưa”. “Hồn lau” là linh hồn của mùa thu, hoa sậy nở trắng, lá sậy xào xạc trong gió thu bên bờ sông “nơi bến bờ”.
Các từ “thấy”, “nhớ” dồn dập như gợi lại biết bao kỉ niệm của một thời đã qua khắc sâu vào lòng người Tây Bắc.
“Dáng người” ở đây có thể là con người Tây Bắc hay người lính Tây Tiến trước thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên? Dù sao, nét riêng của thơ Quang Dũng vẫn luôn ăn sâu vào tâm khảm nhà thơ, luôn hào hoa nhưng uyển chuyển, tài hoa và khôn khéo “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Bốn câu thơ gợi lại cảnh vật và con người Tây Bắc, trên cao nguyên Châu Mộc. Với lối viết tài hoa và tâm hồn lãng mạn, Quang Dũng đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên và con người Tây Bắc thật đẹp. Núi rừng Tây Bắc thuở ấy hoang sơ, linh thiêng nhưng nhà văn lại tìm thấy vẻ đẹp nên thơ, lãng mạn của cảnh và người. Nhà thơ gắn liền với cảnh vật, con người Tây Bắc, sinh tử với những người đồng đội, mới có những kỷ niệm đẹp đẽ, sâu lắng, mới có thể viết nên những vần thơ tuyệt vời như vậy.
Quang Dũng đã vẽ một nét vẽ có hồn bằng những nét cọ lãng mạn, ghi lại vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc và mang vào tim nỗi nhớ, tình yêu cháy bỏng. Phải rất yêu đồng đội, phải rất yêu thiên nhiên và con người nơi đây thì Quang Dũng mới có thể miêu tả một cách xuất sắc vẻ đẹp của cao nguyên Tây Bắc đến như thế.
Đoạn thơ trong “Đây thôn Vĩ Dạ” miêu tả về cảnh sông nước xứ Huế qua cảm xúc trữ tình đầy cảm xúc của nhân vật tôi. Khác với bài thơ “Tây Tiến”, “Đây Thôn Vĩ Dạ” được Hàn Mặc Tử sáng tác dựa trên cảm hứng lãng mạn trong sáng. Thiên nhiên tươi đẹp, làng quê, đất nước trù phú đem đến cho nhà văn tình yêu cuộc sống, con người.
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ trong đó tứ ngôn vận động bằng cảm xúc bên trong rồi bộc lộ ra bên ngoài bằng những hình ảnh phù hợp. Do đó, bài thơ không phát triển theo một dòng chảy liên tục và đôi khi có cảm giác bị ngắt quãng, như thể những ý tưởng và hình ảnh mới đột nhiên xuất hiện. Ở đất Huế không chỉ có cái đẹp mà còn có nhiều sắc thái của thiên nhiên, cảnh có vui có buồn, và tấm lòng của người viết, mong mỏi nơi này. Tác giả miêu tả một hình ảnh khác của thiên nhiên, buồn và gợi lên nỗi nhớ.
Trong khi khổ thơ đầu nói về phong cảnh thôn Vĩ, khi “nắng mới lên” thì ở khổ thơ thứ hai, Hàn Mặc Tử lại gợi nhớ về một vùng sông nước bao la, rộng lớn, một không gian nghệ thuật với bao thương nhớ “Gió theo lối gió, mây đường mây”.
Cách ngắt nhịp 4/3 với hai câu đối nhỏ gợi lên một không gian mây gió tản mác, chia lìa. Các từ “gió” và “mây” được lặp lại hai lần ở mỗi đoạn gợi ra một bầu trời bao la rộng mở. “Dòng buồn” nhẹ nhàng trôi, một làn gió nhẹ thổi qua, những cánh hoa ngô đồng đung đưa, nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng không kém phần mãnh liệt. Đó là một khung cảnh thiên nhiên chân thực, nhưng đồng thời cũng phản ánh tâm trạng riêng của tác giả. Nhà thơ sống trong hoàn cảnh cách biệt nên cảm nhận gió mây đi hai hướng, như tình yêu và lòng người lúc bấy giờ.
Không có một bóng người xuất hiện trước cảnh gió mây ấy. Chỉ có “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Dòng sông hương lững lờ trôi, trong tâm trí nhà thơ nó đã trở thành “dòng sông buồn”, càng mờ mịt, xa vắng. “Buồn thiu” là nỗi sầu hơn cả khúc ruột, là nỗi sầu triền miên cứ day dứt mãi trong tâm hồn con người. Hai bên bờ sông cũng vắng vẻ, chỉ còn thấy những “hoa bắp lay”. Từ “lay” gợi hình ảnh những bông hoa bắp trước làn gió nhẹ.
Hai câu thơ 14 chữ với bốn chất liệu thơ (gió, mây, nước, hoa bắp ) đã hội tụ hồn thôn Vĩ. Hàn Mặc Tử tả ít mà gợi nhiều, tượng trưng mà ấn tượng. Cảnh ngoại cảnh nổi bật, u ám để diễn tả tâm trạng tĩnh lặng: u ám bao trùm lẻ loi, cô tịch.
Hai khổ thơ tiếp theo gợi lên khung cảnh nên thơ, cảnh đêm trăng ở Hương Giang. “Dòng sông buồn” biến thành “dòng sông trăng” thơ mộng một cách kỳ diệu.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Đó là hai câu thơ xuất sắc của Hàn Mặc Tử, được nhiều người khen ngợi, được gói gọn một cách hoàn hảo trong một nghệ thuật lãng mạn tài hoa. “Thuyền ai” phiếm chỉ nhưng lại mang đến nhiều bất ngờ sửng sốt, quen mà lạ, gần mà xa. Con thuyền nằm bến đợi “sông trăng” là một nét vẽ nên thơ và độc đáo.
Cả hai câu thơ, mỗi câu thơ đều có vầng trăng. Ánh trăng soi sáng dòng sông, con thuyền và bến tàu. Những chi tiết hiện thực (đò, sông, trăng) góp phần tạo nên khung cảnh huyền ảo: thuyền và sông quyện vào trăng, mọi vật dường như đã rũ bỏ hết màu sắc, đường nét để hấp thụ ánh trăng. Con đò không chở người (vì người đã đi xa) mà chỉ “đem trăng về” và phải “về kịp đêm nay” vì đã xa và mong đợi sau bao năm tháng.
Sau gió, mây, con thuyền, bến đợi và sông trăng là cảnh đẹp mơ màng. Cả ba bức tranh đều thể hiện một nỗi niềm, không khí hiu quạnh, nỗi nhớ về cảnh và người thôn Vĩ.
Đoạn thơ cho thấy cảnh vật chuyển động rất nhanh từ một khoảng cách rất xa, một nét đặc trưng của thơ Hàn Mặc Tử. Cuộc đời dẫu lìa bỏ một cách phũ phàng, vẫn thiết tha bám lấy sự sống, đó chính là thông điệp nhân văn của khổ thơ này. Vì vậy, gần 80 năm qua, “Đây thôn Vĩ Dạ” vẫn xanh tươi trong vườn thơ Việt Nam. Nó góp phần đưa Hàn Mặc Tử trở thành một trong những đỉnh cao của thơ mới.
3. So sánh cảnh vật thiên nhiên qua 2 bài thơ Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ:
Những bài thơ hay của văn học Việt Nam thường có những câu thơ tả cảnh vật, thiên nhiên nhưng qua đó bộc lộ tâm trạng của chủ thể. “Tây Tiến” và “Đây thôn Vĩ Dạ” là hai bài thơ như vậy.
Nhà thơ Quang Dũng viết “Tây Tiến” bằng những kỉ niệm, cảm xúc về Đoàn quân Tây Tiến của mình. Tác phẩm không chỉ thể hiện vẻ đẹp của vùng núi Tây Bắc mà còn thể hiện tình cảm của những người lính. Nhà thơ đã diễn tả nỗi nhớ của miền Tây Bắc đối với bóng người, đó là dáng người uyển chuyển và đầy dịu dàng trên con thuyền. Liệu nhân vật này có phải là nhân vật cô gái thẹn thùng trong buổi khiêu vũ ở Viêng Chăn, tiếp tục gây ấn tượng cho nhà thơ sau khi trở về. Nhân vật này cũng được thể hiện trong khung cảnh mờ sương, nên thơ và lãng mạn của một buổi chiều buồn. Hiện thực không thể quay lại, đó là những hình ảnh mà nhà thơ chỉ có thể lưu giữ trong tâm trí, nên những cảm giác và cảnh vật đó càng trở nên đặc biệt nhưng cũng rất xa vời.
Cùng với Hàn Mặc Tử, nhà thơ viết về nỗi nhớ mong được ở bên người mình yêu. Sống với căn bệnh hiểm nghèo ở Bình Định xa xôi, nhà thơ đã gửi gắm nỗi nhớ nhung, tình cảm chân thành của mình với người con gái Huế qua những giấc mơ, câu hỏi. Cảnh trong khổ thơ này được diễn tả bằng một dòng đặc tả buồn, cô đơn, đăm chiêu “Gió theo lối gió mây đường mây/Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Có lẽ vì “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nên những cảnh vật trong thơ Hàn Mặc Tử cũng riêng biệt, xa cách, đầy trắc trở. Chỉ có nhà thơ với nỗi nhớ nhung da diết, khao khát được về ngay với người hương. Cũng như Quang Dũng, thi sĩ Hàn Mặc Tử cũng mơ một giấc mơ xa vời, khó thành. Những người này chỉ có thể xuất hiện trong mộng huyễn của chàng trai.
Cả hai đoạn thơ trong “Tây Tiến” và “Đây thôn Vĩ Dạ” đều sử dụng những hình ảnh tượng trưng tiêu biểu, đều trích cảnh để tả tình. Ở “Tây Tiến” có hình ảnh con thuyền, dòng nước, nhành hoa thường thấy trong thơ Đường để diễn tả sự trôi buông xuôi của cuộc đời thì ở “Đây thôn Vĩ Dạ” có gió, mây, sông, nước, ánh trăng; cũng là những hình ảnh tượng trưng quen thuộc, nhưng khung cảnh dường như có tâm trạng hơn. Có như vậy người đọc mới thấy được tình cảm chân thành của người viết. Chắc họ lo lắng lắm, trăn trở lắm trước sự cô đơn và tâm trạng của mình, bởi họ nhớ cảnh vật và con người nơi xứ người một thời.
Qua hai đoạn thơ người đọc thấy được sự chia cắt hai bờ, hai nước son sắt. Tuy nhiên, mọi thứ dường như được gắn kết lại với nhau bởi lòng trung thành bất biến, tình cảm cháy bỏng, mãnh liệt mà nhà văn gửi gắm đến những vùng đất, những con người xa xôi. Tuy là một bài thơ tả cảnh nhưng lại chứa chan cảm xúc, khiến người đọc cảm động đến từng chữ. Đây thực sự là những tác phẩm đặc sắc của hai tác giả Quang Dũng và Hàn Mặc Tử, đồng thời là những kiệt tác xuất sắc trong nền thi ca Việt Nam.
4. Những điểm cần chú ý khi so sánh cảnh thiên nhiên trong Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ:
Nét tương đồng:
-
Thiên nhiên như một nhân vật trữ tình: Trong cả hai bài thơ, thiên nhiên không chỉ là phông nền mà còn là nhân vật trữ tình, tham gia vào diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình. Thiên nhiên vừa là người bạn đồng hành, vừa là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm.
-
Mang đậm dấu ấn chủ quan của nhà thơ: Cảnh vật trong cả hai bài thơ đều được tô đậm bởi cảm xúc của nhà thơ. Quang Dũng và Hàn Mặc Tử đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ để tạo nên những hình ảnh thiên nhiên độc đáo, mang đậm dấu ấn cá nhân.
-
Gợi lên nỗi niềm sâu kín: Cả Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ đều sử dụng thiên nhiên để gợi lên những nỗi niềm sâu kín của con người. Đó có thể là nỗi nhớ quê hương hay sự cô đơn, lạc lõng.
Nét khác biệt:
- Tây Tiến: Thiên nhiên khắc nghiệt, hùng vĩ: Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên trong bài thơ với vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ nhưng cũng đầy khắc nghiệt. Những hình ảnh như “sông Mã xa rồi”, “sông dài, trời rộng” gợi lên một không gian rộng lớn, bao la nhưng cũng đầy hiểm trở. Thiên nhiên ở đây gắn liền với cuộc sống chiến đấu, gian khổ của người lính.
- Đây thôn Vĩ Dạ: Thiên nhiên dịu dàng, êm đềm: Thiên nhiên thôn Vĩ lại mang vẻ đẹp dịu dàng, êm đềm với những hình ảnh như “bến sông trăng đó”, “hoa đong đưa”, “gió theo lối gió mây đường mây”. Thiên nhiên ở đây là nơi để nhân vật trữ tình tìm đến sự bình yên, tĩnh lặng.
- Vai trò của thiên nhiên: Trong Tây Tiến, thiên nhiên là một phần không thể thiếu của cuộc sống chiến đấu, nó gắn liền với những kỷ niệm, những mất mát, hy sinh của người lính. Còn trong Đây thôn Vĩ Dạ, thiên nhiên là nơi để nhân vật trữ tình gửi gắm nỗi buồn, sự cô đơn, là người bạn đồng hành chia sẻ những tâm sự thầm kín.
THAM KHẢO THÊM: