Nhằm mục đích giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa được kiến thức chúng tôi biên soạn bài viết Sơ đồ tư duy Một thời đại trong thi ca dễ nhớ, hay nhất mời bạn đọc cùng tìm hiểu
Mục lục bài viết
1. Dàn ý chi tiết Phân tích Một thời đại trong thi ca:
Phần mở bài:
– Giới thiệu tác giả Hoài Thanh: Hoài Thanh là nhà phê bình, nghiên cứu thơ ca xuất chúng tài năng. Ông được bạn học sinh yêu thích và mến mộ ở lĩnh vực phê bình thơ.
– Giới thiệu về tác phẩm: Một thời đại trong thơ ca là tiểu luận mở đầu cuốn “Thi nhân Việt Nam” – một công trình xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác của Hoài Thanh liên quan đến nhiều vấn đề thơ Mới.
– Giới thiệu nội dung đoạn trích: Đoạn trích là phần kết của bài viết với lập luận chặt chẽ khoa học và một phong cách nghệ thuật tài hoa, tác giả đã chỉ ra đặc trưng cốt lõi của thơ Mới là cái tôi cá thể cùng số phận đầy bi kịch của nó.
Phần thân bài:
Phân tích theo bố cục 3 phần
* Tác giả đưa ra tiêu chí khẳng định tinh thần và giá trị của thơ Cũ và Thơ mới: Là chỉ dựa vào cái đẹp và cái hay của từng thời.
– Bắt đầu đoạn trích, tác giả nêu rõ nguyên tắc chung của việc đánh giá thơ Mới là phải dựa vào cái Đẹp của đại thể mỗi thời.
– Theo tác giả cái khó trong việc tìm ra tinh thần của thơ Mới là:
+ Thơ Cũ, thơ Mới đều có bài hay, bài dở.
Các nhà thơ Mới không chỉ viết ra những câu thơ hoàn hoàn cách tân, hiện đại mà vẫn gợi lại những hình ảnh thân thuộc muôn thuở của thơ ca truyền thống như Xuân Diệu:
Người giai nhân: bến đợi dưới cây
Tình du khách: thuyền qua không.
Trong khi đó thơ Cũ lại có những câu “nhí nhảnh và lả lơi”.
Ô hay! Cảnh cũng ưa người nhỉ
Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ?
Theo Hoài Thanh thời đại nào cũng có những tác phẩm hay, tác phẩm dở.
+ Cái khó thứ hai giữa thơ Cũ và thơ Mới vẫn có sự giao thoa, ảnh hưởng:
Cái hôm nay phôi thai từ cái hôm qua, trong cái mới vẫn có cái cũ rơi rớt lại.
=> Từ đây nhà nghiên cứu đưa ra nguyên tắc nhận diện:
– Không căn cứ vào cục bộ và cái dở của thơ mỗi thời.
– Phải căn cứ vào cái đại thể, cái hay của mỗi thời.
=> Cách nhìn nhận của tác giả như vậy là khách quan khoa học và biện chứng.
* Nêu ra đặc trưng tinh thần của thơ Mới.
Tinh thần thơ Cũ – chữ TA
Tinh thần thơ Mới – chữ TÔI
– Theo Hoài Thanh điều cốt lõi mà thơ Mới mang đến cho thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ chính là chữ TÔI – ý thức về bản thân.
– Khi tìm tòi đặc điểm của thơ Mới, tác giả luôn phân tích cái Tôi trong nhiều mối quan hệ để làm nổi rõ bản chất của nó. Đặt cái Tôi trong quan hệ với cái Ta để tìm ra những chỗ giống và khác nhau.
* Tác giả luận giải về nội dung và biểu hiện của chữ Ta và chữ Tôi trong thơ ca.
– Chữ “Tôi” chính là ý thức cá nhân
– Chữ “Ta” là ý thức cộng đồng.
=> Hai ý thức này là hai tiếng nói tồn tại song song trong đời sống tinh thần của mỗi con người. Thời trước, cái Ta lấn át nên cái Tôi không có cơ hội để nảy nở, còn thời nay cái tôi trỗi dậy giành quyền sống tự do. Phong trào thơ Mới nảy sinh chính từ sự trỗi dậy mạnh mẽ đó.
– Chữ “Ta” và chữ “Tôi” trong thơ Cũ và thơ Mới có gì khác nhau:
+ Chữ “Ta” trong thơ Cũ gắn liền với mối quan hệ gia đình, quốc gia, giống như giọt nước trong biển cả không có bản sắc riêng.
+ Chữ “Tôi”: bản sắc riêng, quan niệm cá nhân.
Nhận xét lập luận:
– Các bước lập luận theo trật tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể. Trật tự mạch lạc, bảo đảm tư duy logic, sức thuyết phục cao.
* Tác giả đề cập đến sự phản ứng của xã hội trong quá trình tiếp nhận nó.
– Chữ “Tôi” với cái nghĩa tuyệt đối của nó lại “đáng thương” tội nghiệp bởi vì:
+ Thi nhân mất hết cái cốt cách hiện ngay ngày trước.
+ Cái Tôi đem đến cho tâm hồn họ nỗi buồn lạnh bơ vơ, muốn thoát nhưng không được: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu, càng đi càng thấy lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ… Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
– Âm điệu của câu văn lúc cân đối nhịp nhàng, lúc bất ngờ gấp gáp, lúc chùng xuống suy tư.
– Tác giả sử dụng rất nhiều tính từ, động từ chỉ trạng thái tâm lý giàu sức biểu cảm: rộng, sâu, lạnh…
– Phân tích sự tương phản giữa khát vọng thoát thân với thực tế tù túng, bi kịch thi sĩ lãng mạn:
Thoát lên tiên – Động tiên đã khép
Phong lưu trong trường tình – Tình yêu không bền
Điên cuồng – Điên cuồng rồi tỉnh
Đắm say – Say đắm bơ vơ
=> Những nhà thơ cách mạng cũng như “người thanh niên” bấy giờ, giải toả bi kịch cuộc đời mình vào tiếng Việt, đặt tình yêu quê hương trong tiếng Việt, dồn tinh thần kháng chiến, hướng về quá khứ làm chỗ dựa tinh thần.
Phần kết bài: Bài luận hấp dẫn, cuốn hút đã làm lay động trái tim biết bao thế hệ người đọc nhờ tư duy khoa học, văn phong sáng tạo, độc đáo, lối diễn đạt giàu hình tượng, ngôn ngữ gợi liên tưởng Hoài Thanh đã cho chúng ta nhiều hiểu biết sâu sắc và chắt lọc tinh hoa của thơ Mới. Hoài Thanh xứng đáng là cây bút phê bình lỗi lạc của văn học Việt Nam hiện đại.
2. Sơ đồ tư duy Một thời đại trong thi ca:
3. Một số bài văn phân tích mẫu:
3.1. Phân tích tác phẩm Một thời đại trong thi ca hay nhất:
Nội dung của cuốn sách đã đề cập đến khá nhiều vấn đề như cội nguồn của thơ mới, sự tranh luận, đối chiếu giữa thơ mới – thơ cũ, đôi nét về con đường phát triển Thơ mới, đặc trưng về hình thức thể loại và triển vọng trước mắt của Thơ mới; tinh thần cốt lõi của Thơ mới và hình tượng cái tôi trong từng tác phẩm. Ở mỗi một khía cạnh của vấn đề, tác giả đều có những nhận xét với các góc cạnh rất riêng biệt kèm theo các lập luận sắc bén và tinh tế.
Tinh thần thơ mới là lời tuyên ngôn của cái “tôi”. Để xác định rõ tinh thần Thơ mới tác giả đã đưa ra các lập luận cụ thể về vai trò của cái “tôi” trong việc so sánh cái “tôi” với “ta”. Nét chung của thơ cũ là nghiêng về chữ “ta”, nghiêng về ý thức cộng đồng và muốn thấy rõ ý thức cộng đồng, Hoài Thanh đã nhìn nhận trong lối sống nói chung và nhìn nhận trong văn chương nói riêng. Xã hội Việt Nam từ xa xưa không có cá nhân chỉ có đoàn thể to thì quốc gia bé hơn gia đình. Còn cá nhân, bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước lớn trong đại dương “.Như vậy nhìn qua tổng thể thì thơ cũ bao gồm luôn chữ “ta”, họ cần đoàn thể để chống lại nỗi cô độc. Thơ mới thường nghiêng về “cái tôi” và “ý thức cá nhân,” đặt trên nền tảng của tinh thần thời nay thì tinh thần của thơ mới bao hàm hai trong chữ “tôi” – ý thức cá nhân của từng người “và khi thơ mới ra đời nó mang một quan niệm chưa hề có ở xứ ta” đó là quan niệm cá nhân”.
Thứ ba là biểu hiện và tiếp nhận của cái tôi. Đầu tiên là việc xuất hiện và tiếp thu của cái “tôi”. Trước tiên khi cái tôi xuất hiện trên văn đàm vẫn còn có khá nhiều điều bỡ ngỡ. Nó giống như một kẻ lạc loài ở nơi xứ lạ bao con mắt ngó ta một cách khó chịu. Vì chúng ta đã quen với cuộc sống trong mình có chữ “ta”. Bây giờ, nó xuất hiện chúng ta sao có thể tránh né được nỗi sợ hãi. Nhưng theo năm tháng, chữ “tôi” đã dần được thừa nhận và đã khiến bài thơ đã bớt hẳn những nét bỡ ngỡ của ban đầu.
Cuối cùng tác giả đã chỉ rõ một hướng lớn trong trào lưu thơ mới. Đi sâu vào cái “tôi “:” đời của chúng ta nằm trong vòng tròn của “tôi”, hết bề rộng ta phải đi tìm bề sâu “.”mất bề rộng” là không còn nghiêng về cái tầm thường, cái phổ quát của thơ cũ, mà đi tìm bề rộng cũng là đi tìm cái tôi, đi sâu vào ý thức riêng của từng nhà thơ. Tâm hồn của những thi sĩ thu mình trong cái “tôi” cho nên thường cảm thấy cô độc, trống vắng nên mới gọi đó là “cái tôi tội nghiệp”. Xuân Diệu là một nhà thơ đầy đủ nhất của thời đại ấy thế mà lại nhắc tới sự đau đớn, khốn khổ, thê thảm của cái tôi trong từng lời thơ của mình. Từ đó Hoài Thanh đã khái quát: “chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn mà lại còn ảm đạm đến vậy”.
Cách dẫn và lập luận của nhà thơ cũng trở nên chặt chẽ hơn khi dẫn ra những hình ảnh cụ thể, so sánh liên tưởng và đặc biệt đưa ra các câu chuyện về Cao Bá Nha, của cô Phụ trên bến Cầm Dương có tính đòn bẩy nhằm khẳng định nỗi đau không nơi nương tựa của các nhà thơ mới. Thế cho nên, nỗi đau của nhà thơ mới được đẩy lên như một bi kịch xảy ra trước mắt.
Bài tiểu luận có bố cục chặt chẽ, lập luận hết sức logic, lời văn của Hoài Thanh vừa sắc bén, lại hết sức truyền cảm với giọng nói của người trong cuộc và những lý giải chính xác về quan niệm nhà thơ “lấy hồn tôi mà hiểu lòng người”. Đặc biệt các khái niệm đó vốn dĩ khô khan, nhưng những phân tích, lý giải của Hoài Thanh đã được chuyển hoá thành các hình tượng biểu cảm. Các câu văn được cân chỉnh, mạch lạc với giọng văn lôi cuốn người đọc. Chính điều này đã mang lại chất thơ cho bài văn. Cách sắp xếp câu văn rất hợp lí, logic, ngôn ngữ cô đọng, giản dị dễ đọc mà nội dung cô đọng là một trong những điểm mà ít có bài văn nào có thể đạt được. Đoạn văn đã đi sâu vào lý giải về quá trình hình thành và phát triển của thơ mới. Qua đó, chúng ta cũng có thể nhìn thấy sự trân trọng tác phẩm của nhà thơ, nhìn thấy sự hình thành ý thức cá nhân qua thơ và tấm lòng của tác giả mới với toàn dân Việt Nam.
3.2. Phân tích tác phẩm Một thời đại trong thi ca ý nghĩa nhất:
Hoài Thanh là một nhà phê bình văn học được coi là một nhà nghiên cứu, nhà phê bình vĩ đại nhất. Cuốn sách nổi tiếng “một thời đại trong thi ca” là tác phẩm tiêu biểu cho cuốn Thi nhân Việt Nam. Đó cũng chính là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất trong cuộc đời sáng tác của Hoài Thanh. Và cũng dễ dàng nhận thấy rằng nội dung của quyển sách có liên quan đến khá nhiều vấn đề về cội nguồn của thơ mới, những tranh cãi thậm chí có cả về sự so sánh giữa thơ mới – thơ cũ. Trong tác phẩm đó cũng chỉ là vài phác thảo về con đường của Thơ mới, đặc trưng về hình thức thể loại và viễn cảnh tương lai của Thơ mới. Ta dễ nhận ra nhất đó chính là cái tư tưởng cốt lõi của Thơ mới và hình tượng cái tôi trong từng câu thơ. Và ở mỗi khía cạnh của sự việc, tác giả đều có những nhận xét với các góc độ rất riêng biệt kèm theo những lập luận sắc bén và tinh tế nhất.
Và ấn tượng với phần mở đầu cho bài thơ được tác giả nêu ra để khẳng định thời đại thi ca mới. Ta cũng thấy rằng theo như Hoài Thanh thì muốn khẳng định được thời đại thi ca thì phải có sự so sánh. Và cái sự so sánh này dường như cũng đã chỉ ra được cách khẳng định của Hoài Thanh là có tính khoa học bởi vì chỉ những câu hay mới có thể trở thành thước đo để khẳng định giá trị thi ca mà thôi. Điều thứ hai đáng nói ở đây cũng chính là phải như nhìn vào tổng thể chứ đừng soi vào tiểu tiết. Nghĩa là phải dựa trên điểm chung nhất sau đó mới có thể lấy những nét đặc thù và cá biệt khác để mà phân tích và đánh giá sao cho chân thực nhất.
Và một điều đáng chú ý ở đây có lẽ chính là tinh thần thơ mới là lời phủ định của chữ “tôi”. Cũng chính là nhằm thể hiện rõ tinh thần Thơ mới tác giả đã đưa ra những lập luận rõ ràng về ý nghĩa của chữ “tôi” qua việc so sánh chữ “tôi” với “ta”. Ta cũng sẽ thấy rằng có những nét chung của thơ cũ là nghiêng về cái “ta”, nghiêng về tính tập thể cá nhân nhằm làm nổi bật ý thức con người. Đặc biệt hơn là bản thân Hoài Thanh đã nhìn trong cách suy nghĩ nói chung và nhìn trong văn chương nói riêng “.Ta cũng thấy rõ rằng xã hội Việt Nam từ xa xưa không có cá nhân chỉ có tập thể to còn đất nước bé thì gia đình. Và khi nói đến cá nhân thì có lẽ rằng cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong xã hội như giọt nước lớn trong đại dương”. Như vậy, khi cơ mà nhìn qua toàn bộ thì thơ cũ bao gồm thêm chữ “ta”, họ cầu cứu tập thể nhằm kháng lại nỗi đơn độc thì thật lạc long biết nhường nào.
Thơ mới có lẽ cũng đã dường như là nghiêng về “cái tôi” và “ý thức cá nhân,” dựa trên nền tảng của tinh thần thời nay hay cũng là một tinh thần của thơ mới bao gồm hai trong chữ “tôi” – ý thức cá nhân của mỗi người “và đã chứng minh rằng khi thơ mới xuất hiện nó có một quan niệm chưa hề thấy ở đất nước ta” đó là quan niệm cá nhân “.
Thứ ba đáng nói ở đây cũng chính là biểu hiện và ý nghĩa của cái tôi. Đầu tiên đáng nói đến chính là quá trình xuất hiện và tiếp thu của cái “tôi”. Trước tiên khi cái tôi xuất hiện trên văn đàm sẽ thấy có khá nhiều điều mới lạ. Nó dường như thật là giống với một kẻ lạc loài ở nơi đất lạ bấy nhiêu con mắt nhìn vào thì khó chịu biết bao. Cũng chỉ bởi vì chúng ta đã quen với cuộc sống trong mình có chữ “ta”. Bây giờ, chính cái “tôi” ấy dường như lại xuất hiện thì sao mà thoát được nỗi sợ hãi. Nhưng có thể nói cái “tôi” theo thời gian, cái “tôi” đã dần được đón nhận và đã khiến cho nó đã bớt hẳn đi vẻ ngượng ngùng của ban đầu.
Cuối cùng ta cũng như đã thấy rằng chính tác giả đã mở ra một hướng lớn trong trào lưu thơ mới. Đi sâu vào cái “tôi” ấy thì hình như đời của chúng ta luẩn quẩn trong vòng tròn cái “tôi”, hết bề rộng ta phải đi tìm bề sâu “.”mất bề sâu “là không còn hướng tới cái chung một sợi dây liên kết như trước nữa. Và đó cũng là cái chung của thơ cũ, vì đi tìm bề sâu mới là đi tìm cái tôi, đi sâu vào ý thức riêng của từng nhà thơ. Ta có thể thấy rằng dường như từ tâm hồn của những thi sĩ thu mình trong cái “tôi” cho nên luôn cảm thấy trống vắng, cô đơn nên mới gọi đó là “cái tôi tội nghiệp”. Xuân Diệu quả đúng là một nhà thơ đầy đủ nhất của thời đại ấy thế mà lại nói về sự lẻ loi, khốn khổ, tội nghiệp của cái tôi trong từng bài thơ của mình. Từ đó Hoài Thanh đã khái quát rất hay “chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn mà lại còn ảm đạm đến vậy”.
Có thể thấy được rằng cách dẫn và lập luận của tác giả ngày càng trở nên chặt chẽ hơn khi dẫn ra những trường hợp cụ thể, cũng với việc so sánh liên tưởng và nhất là đưa thêm các câu chuyện về Cao Bá Nha, của cô Phụ trên bến Cầm Dương có tính chất như là những đòn bẩy nhằm khẳng định nỗi đau không nơi nương tựa của các nhà thơ mới. Thế nên, ta có thể thấy rằng các nỗi đau của thơ mới thường hiện lên như một bi kịch xảy ra ngấm ngầm và âm ỉ chứ không bao giờ ngừng mạnh hẳn.
Quả thực là bài luận có kết cấu chặt chẽ, lập luận hết sức logic, lời văn của Hoài Thanh vừa sắc bén, lại vô cùng truyền cảm với giọng nói của người trong cuộc. Và như với những lý giải đúng theo quan điểm nhà thơ như đã “lấy hồn tôi mà hiểu hồn người”. Đặc biệt hơn ta còn thấy ở đây đó chính là các khái niệm đó vốn dĩ khô cứng, thông qua những phân tích, lý giải của Hoài Thanh đã được chuyển hoá sang các hình ảnh biểu cảm. Các câu văn có lẽ cũng đã được cân chỉnh, hợp lý với giọng văn lôi cuốn người đọc. Có lẽ vì chính điều này đã mang lại tính thẩm mĩ cho bài văn. Cách dẫn dắt đoạn văn của Hoài Thanh ta có thể thấy được sự hợp lí, logic, ngôn từ súc tích, giản dị dễ đọc mà vẫn cô đọng là một trong những điều mà ít có bài phê bình văn học nào có thể đạt được.
Đoạn trích có lẽ đã đi sâu cũng như là tập trung lý giải về sự hình thành và phát triển của thơ mới. Qua đó, chúng ta cũng đã nhìn thấy sự quan tâm cổ động của nhà thơ, chúng ta cũng đã phần nào nhìn thấy sự xuất hiện ý thức cá nhân trong thơ ca như tấm lòng của nhà thơ mới với toàn thể dân tộc Việt Nam vậy.