Cô bé bán diêm là một trong những truyện cổ An-đéc-xen được yêu thích nhất. Câu chuyện thể hiện tấm lòng nhân đạo, giàu tình yêu thương của nhà văn với những đứa trẻ con nghèo khổ trong xã hội lúc bấy giờ. Cùng tham khảo sơ đồ tư duy và bài văn mẫu phân tích chuyện Cô bé bán diêm dưới đây nhé:
Mục lục bài viết
1. Sơ đồ tư duy Cô bé bán diêm:
1.1. Sơ đồ tư duy Cô bé bán diêm đơn giản nhất:
1.2. Sơ đồ tư duy Cô bé bán diêm dễ đọc nhất:
1.3. Sơ đồ tư duy Cô bé bán diêm dễ hiểu nhất:
1.4. Sơ đồ tư duy Cô bé bán diêm dễ nhớ nhất:
2. Sơ đồ tư duy tác giả Andecxen:
3. Tóm Tắt Nội Dung Truyện Cô Bé Bán Diêm:
Trong đêm giao thừa trời trở lạnh, rét mướt, có một cô bé đầu trần, chân đất, bụng đói, buồn bã bán diêm trong bóng tối. Cô bé bán diêm ấy mồ côi mẹ và cũng đã mất đi người yêu thương mình nhất là bà nội của cô. Em không dám về nhà vì sợ bố sẽ đánh .
Vừa lạnh vừa đói, cô bé ngồi nép vào một góc tường, nhẹ nhàng quẹt một que diêm để sưởi ấm. Que diêm đầu tiên mang lại cho em cảm giác ấm áp như ngồi cạnh lò sưởi. Em nhanh chóng quẹt que diêm thứ hai và thấy một bàn ăn thịnh soạn hiện ra. Sau đó em thắp que diêm thứ ba và nhìn thấy cây thông Noel. Thắp que diêm thứ tư: Bà nội dịu dàng của em hiện ra, bà xinh đẹp, gần gũi và nhân hậu biết bao.
Những ảo tưởng đó nhanh chóng biến mất sau khi que diêm cháy hết. Em nhanh chóng đốt cả hộp diêm để cố giữ bà lại. Cô bán diêm bé nhỏ đã chết trong giá lạnh khi đang mơ được bay cao cùng bà.
4. Bài văn mẫu phân tích Cô bé bán diêm:
Tuổi trẻ chúng ta, ai đã từng cắp sách đến trường hẳn đều biết đến H.C. An-đéc-xen, người viết truyện kể cho trẻ em nổi tiếng thế giới. Ông là nhà văn Đan Mạch, sống và viết trong thế kỉ XIX (1805 – 1875). Bạn đọc khắp năm châu đã rất quen thuộc với các tác phẩm của ông như Nàng tiên cá, Bầy chim thiên nga, Bộ quần áo mới của hoàng đế, Cô bé bán diêm,…
Truyện của An-đéc-xen nhẹ nhàng, trong trẻo, toát lèn lòng thương yêu con người – nhất là những người nghèo khổ và niềm tin, khát vọng những điều tốt đẹp nhất trên thế gian này sẽ thuộc về con người. Truyện Cô bé bán diêm đưa người đọc chúng ta vào khung cảnh một đêm giao thừa giá rét ở đất nước Đan Mạch, Bắc Âu cách đây hơn một trăm năm.
Em bé gái ấy nhà nghèo, mồ côi mẹ, bà vừa mất, bố sai đi bán diêm kiếm từng đồng xu nhỏ độ thân. Suốt cả ngày cuối năm, cho đến đêm giao thừa, em chẳng bán được bao diêm nào. Vừa đói, vừa rét, em bé thu mình lại trong xó tường của một tòa nhà lớn để… ước ao, mơ tưởng.
Những khát vọng tuổi thơ ấy cứ sáng lên, sáng lên đẹp đẽ, kì ảo làm sao và đau khổ làm sao! Thể hiện điều này, nhà văn đã xây dựng những hình ảnh đối lập, thực tế và mộng tưởng, mộng tưởng và thực tế cứ đan cài vào nhau, tranh chấp với nhau, lôi cuốn người đọc…
Phần mở đầu tác phẩm kể rõ cảnh ngộ éo le của cô bé bán diêm với những chi tiết đối lập rõ nét : “Trời đông giá rét, tuyết rơi”, nhưng “cô bé đầu trần, chân đất” bước đi. Ngoài đường lạnh buốt và tối đen, nhưng “cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn”. Cô bé “bụng đói”, cả ngày chưa ăn uống gì, mà “trong phố sực nức mùi ngỗng quay”…
Những chi tiết tương phản đó khiến người đọc thấy tình cảnh em bé thật tội nghiệp, đáng thương. Cái rét, cái đói, công việc kiếm sống giày vò, đày đọa em. Em đã rét, đã khổ, có lẽ càng rét khổ hơn khi thấy mọi nhà rực ánh đèn. Em đã đói, có lẽ càng đói hơn khi ngửi thấy mùi ngỗng quay sực nức… Đi vào đoạn trích trong sách giáo khoa, từ câu mở đầu “Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn…” đến câu “… đôi bàn tay em đã cứng đờ ra”, người đọc thấy ngay tình cảnh khốn khó của cô bé.
Năm xưa, “khi bà nội hiền hậu của em còn sống”, “em được đón giao thừa trong căn nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh, em đã sống những ngày đầm ấm”. Giờ đây, giữa đêm giao thừa này, “em ngồi nép trong một góc tường, thu đôi chân vào người, mỗi lúc càng thấy rét hơn”. Đây cũng là hai hình ảnh tương phản, đối lập giữa hiện tại và quá khứ.
Trước kia, cô bé được sống hạnh phúc bao nhiêu thì bây-giờ bơ vơ, côi cút bấy nhiêu. Cả nhà, chỉ có bà là người thương yêu em nhất, là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất giờ không còn nữa. Trước kia, đêm giao thừa, em được vui chơi quây quần trong nhà, giờ em phải bơ vơ ngoài phố kiếm sống. Mường tượng hình ảnh cô bé bán diêm côi cút, đói khổ giữa đêm giao thừa, ta chợt thấy nhớ mấy câu thơ trong bài Mồ côi của Tố Hữu:
Con chim non rũ cánh
Đi tìm tổ bơ vơ
Quanh nẻo rừng hiu quạnh
Lướt mướt dưới dòng mưa.
Cảnh ngộ em bé Đan Mạch trong đêm giao thừa vẫn phải đi kiếm sống tuy có khác cảnh ngộ em bé Việt Nam mồ côi tìm mẹ, nhưng đọc văn, nhớ lại thơ, hình dung thân phận hai kiếp người thơ dại ấy, ai mà chẳng não lòng, rớm lệ!
Phần thứ hai của câu chuyện, từ câu “Chà ! Giá quẹt một que diêm…” đến “Họ đã về chầu Thượng đế”, kể về những lần cô bé quẹt diêm đốt lửa, đốt sáng lên những ước mơ, khát vọng. Ở phần này, những hình ảnh đối lập, tương phản càng lúc càng gay gắt, thực tế và mộng tưởng, cuộc đời và ảo ảnh cứ sóng đôi hiển hiện, đang cài, tranh chấp nhau, nâng dần lên, bay cao lên…
Cô bé quẹt que diêm thứ nhất: diêm sáng rực như than hồng. Em tưởng chừng như “đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng… Lửa cháy non đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng”. Nhưng, em vừa duỗi chân ra thì “lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất”. Niềm vui của em cũng vụt tắt.
Em bần thần nghĩ đến nhiệm vụ bán diêm và lời cha quở mắng. Cô bé quẹt que diêm thứ hai: “Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay… Ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé”. Nhưng diêm vụt tắt.
Trước mặt em chỉ còn là những bức tường dày đặc và lạnh lẽo. Phố xá vắng teo. Mấy người khách qua đường vội vã hoàn toàn lãnh đạm với em. Em bé cố tìm lại ngọn lửa để tiếp tục sưởi ấm, xua đi bóng tối và giá lạnh. Em quẹt que diêm thứ ba: Một cây thông Nô-en hiện lên, “Cây này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây thông mà em đã được thấy năm ngoái qua cửa kính một nhà buôn giàu có. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực…”. Nhưng diêm lại vụt tắt. Tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi, rồi biến thành những ngôi sao trên trời.
Từ lần quẹt diêm thứ nhất, đến lần thứ hai, thực tế đã xóa nhòa đi mộng tưởng của em bé. Nhưng đến ngọn nến thứ ba thì dường như mộng tướng đã vươn dậy, cố vượt lên trên thực tế. Vì thế, sau khi diêm tắt, em bé thấy tất cả các ngọn nến bay lên, biến thành những ngôi sao trên trời. Dường như em bé đang ngẩng đầu nhìn sao trời, rồi nhớ tới người bà thân yêu.
Em liền quẹt luôn que diêm thứ tư thì… bà em hiện lên. Em sung sướng reo lên, trò chuyện với bà, xin bà cho đi theo…”cho cháu về với bà”. Có thể đến phút này, cô bé tội nghiệp ấy đã sức tàn, lực kiệt dần” gục xuống cạnh bức tường giá buốt. Em lịm dần, lịm dần và trôi vào trong một giấc mơ đẹp. Diêm vụt tắt. Ánh sáng, hơi ấm vụt tắt, “ảo ảnh” biến mất. Nhưng em bé bừng tỉnh, như ngọn lửa trước khi tắt hẳn đã sáng lóe lên. Thế là cô bé quên hết mọi thực tế phũ phàng, quên nhiệm vụ bán diêm, quên sự quở mắng của cha.
Những que diêm thứ năm, thứ sáu, thứ bảy… và tất cả những que diêm trong bao được đốt sáng lên, nối ánh sáng, chiếu sáng như ban ngày. Em bé thực sự được sống trong một giấc mơ kì diệu. Em thấy “bà em to lớn và đẹp lão… Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa họ nữa…”.
Rõ ràng, mỗi lần quẹt diêm, đốt lửa là một lần cô bé đói khổ kia ước mơ, khát vọng. Những ước mơ của em thật giản dị và ngây thơ, gắn liền với tuổi thơ trong sáng và nhân hậu của em. Em khao khát có cuộc sống vật chất đầy đủ, được hưởng những thú vui tinh thần, được sống trong hạnh phúc gia đình ấm êm, được bà – người thân yêu nhất – chăm sóc, chiều chuộng. Đó cũng là những ước mơ khát vọng chính đáng, muôn đời của các em bé nói riêng và của con người nói chung.
Thể hiện khát vọng, ước mơ của một em bé cụ thể trong câu chuyện này, nhà văn Đan Mạch ấy hẳn đã cháy lòng mong muốn các em bé và mọi người, trước hết là những kiếp người đói khổ, vượt qua được những thực tế phũ phàng để vươn tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có miếng ăn no đủ, có áo ấm, được yêu thương, chăm sóc. Mỗi lần em bé quẹt diêm đốt lửa dường như cũng là một lần ngọn lửa tin yêu, khát vọng trong trái tim nhà văn cháy lên, sáng lên, động viên con người, giục giã con người…
Nhưng thực tế phũ phàng – thực tế cuộc sống nước Đan Mạch những năm giữa thế kỉ XIX, khi nhà văn viết tác phẩm này và thực tế ngày nay của không ít đất nước đói nghèo trên trái đất, đã xoá đi mộng tưởng của em bé bán diêm và biết bao người nghèo khổ khác nữa.
Vì thế, khi em bé được gặp lại bà cũng là lúc em giã từ cõi đời. Đoạn kết thúc tác phẩm, từ câu “Sáng hôm sau…” đến hết, kể về cái chết của cô bé bán diêm. Từ những dòng văn bay lượn, chói sáng đầy chất lãng mạn ở cuối đoạn trên, đến đây, ngôn từ như trĩu xuống, nhẹ nhàng, thấm thía một âm điệu buồn thương. Có buồn, có thương nhưng không bi luỵ mà vẫn trong sáng và nồng ấm, đúng như ánh sáng và hơi ấm của một ngày đầu năm. “Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa”.
Vâng, cho đến những dòng cuối cùng của tác phẩm, nhà văn vẫn dùng những hình ảnh đối lập, tương phản rất đặc sắc. Giữa ngày đầu năm hứa hẹn những mầm sống mới mọc lên, có một em bé chết. Người chết trong băng giá từ đêm khuya mà đến rạng sáng đôi má vẫn hồng, đôi môi đang “mỉm cười”.
Mọi người bảo nhau: “Chắc nó muốn sưởi cho ấm”, một công việc bình thường, nhưng thực ra em bé đã sống những phút kì diệu, giữa cảnh “huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm”… Miêu tả “một cảnh tượng thương tâm” về cái chết của cô bé bán diêm, ngòi bút của An-đéc-xen vừa thực, vừa mộng. Sự thực là em bé khốn khổ kia đã chết.
Nhưng đây là một cái chết đẹp, hình hài thể xác chết mà linh hồn, khát vọng của em bé vẫn sống, sống trên đôi má hồng, đôi môi đang mỉm cười, sống trong cảnh tượng huy hoàng cùng bà bay lên đón năm mới. Nói về cái chết, người ta hay nghĩ tới bi kịch. Nhưng viết về cái chết của cô bé bán diêm như thế, tác phẩm của An-đéc-xen là một bi kịch lạc quan.
Rõ ràng, đến những dòng cuối của áng văn, tình thương, niềm tin con người và khát vọng những điều tốt đẹp nhất cho con người trong cõi lòng nhà văn Đan Mạch – ông già kể chuyện cổ tích nổi tiếng ấy, thấm đẫm chất nhân đạo, nhân văn. Có thể nói, An-đéc-xen “biết khám phá những khía cạnh thần kì, bất ngờ ngay trong những sự việc đơn giản hằng ngày, đưa chúng vào thế giới thần thoại đầy chất thơ, nhưng vẫn giải quyết chúng phù hợp với những quan niệm nhân sinh và xã hội tiến bộ của mình”.
Truyện Cô bé bán diêm có nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng, với các chi tiết tương phản, diễn biến hợp lí, truyền cho chúng ta lòng thương cảm đối với một em bé bất hạnh, lay động trong ta tình thương và niềm tin ở con người, nhất là những con người phải đối mặt với những khó khăn thử thách ở đời vẫn không nguôi mong muốn, khát vọng những điều tốt đẹp nhất.
THAM KHẢO THÊM: