Chị em Thúy Kiều là một trong những tác phẩm rất quan trọng mà các bạn học sinh lớp 9 cần chú ý để học tập và ôn thi. Sau đây là Sơ đồ tư duy chị em Thúy Kiều Ngữ văn lớp 9 ngắn gọn, dễ hiểu
Mục lục bài viết
1. Sơ đồ tư duy Chị em Thúy Kiều dễ hiểu:
Mẫu 1
Mẫu 2
2. Tìm chung đoạn trích Chị em Thúy Kiều:
Đoạn trích nằm ở phần mở đầu của phần 1: “Gặp gỡ và đính ước”.
Bố cục
– Đoạn 1 (4 câu đầu): Giới thiệu khái quát hai chị em Thúy Kiều.
– Đoạn 2 (4 câu tiếp): Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân.
– Đoạn 3 (12 câu tiếp): Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều.
– Đoạn 4 (4 câu cuối): Nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em.
Giá trị nội dung
Trích đoạn miêu tả vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân. Với ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã vẽ nên những chuẩn mực về vẻ đẹp của phụ nữ trong xã hội xưa, đó cũng có thể coi là chuẩn mực của cái đẹp trong văn học trung đại. Không chỉ miêu tả những hình mẫu, chân dung của Thuý Kiều và Thuý Vân trong tác phẩm, mà đoạn trích còn thể hiện những dụng ý nghệ thuật sâu xa của tác giả. Mặc dù “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười,” nhưng với mỗi nhân vật, sự miêu tả của Nguyễn Du dường như đã dự báo những số phận khác nhau của hai chị em. Điều này đã thể hiện bút pháp miêu tả nhân vật rất sắc sảo của ông
Giá trị nghệ thuật
Nổi bật ở đoạn trích là nghệ thuật khắc họa nhân vật lí tưởng bằng bút pháp ước lệ – lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp của con người, không miêu tả chi tiết cụ thể mà tạo sự gợi mở, sử dụng biện pháp đòi hỏi người đọc phải sử dụng tưởng tượng để tạo ra hình ảnh.
3. Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều:
Nguyễn Du là Đại thi hào của văn học của Việt Nam. Ông đã để lại rất nhiều những tác phẩm có giá trị và tuyệt tác, trong đó tiêu biểu có “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi với cái tên quen thuộc là “Truyện Kiều”. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn trích độc đáo đã thể hiện được tài năng nghệ thuật miêu tả, khắc họa chân dung con người của Nguyễn Du, góp phần làm nên thành công của tác phẩm.
Trích đoạn nằm ở phần mở đầu của tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của nàng Kiều. Khi giới thiệu các nhân vật trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều. Trước hết, bốn câu thơ mở đầu là lời giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều – Thúy Vân:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Tác giả đã sử dụng bút pháp ước lệ, ẩn dụ để giới thiệu khái quát về hai chị em qua rất nhiều bình diện như: Xuất thân, gia thế, vị trí trong gia đình và vẻ đẹp của hai chị em. Cả 2 đều là con gái đầu lòng của gia đình họ Vương, trong đó Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. Tuy hai chị em có những vẻ đẹp khác nhau nhưng cả hai đều mang chung vẻ đẹp thuần khiết, thanh cao, trong trắng: Ngoại hình, cốt cách như cây mai; tâm hồn và tinh thần thì trong trắng như tuyết. Đó là vẻ đẹp trong sáng, toàn diện từ trong ra ngoài, từ dáng vẻ tới tâm hồn “mười phân vẹn mười”. Chỉ bằng bốn câu thơ đầu ngắn gọn, tác giả đã miêu tả được những thông tin của nhân vật, đồng thời làm nổi bật lên nét đẹp hai chị em. Từ đó, định hướng cảm xúc cho cả bài, giúp người đọc thấy được cảm hứng ngợi ca con người trong đoạn thơ.
Ở bốn câu thơ tiếp, Nguyễn Du đi vào vẽ những nét vẽ cụ thể về chân dung và vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Từ câu thơ đầu, nhà thơ đã khái quát vẻ đẹp phong thái của Vân bằng hai chữ “trang trọng”. Đây là vẻ đẹp cao sang, quý phái, ung dung. Tiếp tục sử dụng bút pháp ước lệ, nhà thơ đã ví nhan sắc của Vân với những hình ảnh đẹp nhất của thiên nhiên như: “trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc”. Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du, chân dung vẻ đẹp của Vân hiện lên toàn diện từ khuôn mặt, nét mày ngài, nụ cười cho đến lời nói, mái tóc, làn da. Tất cả đều hiện lên sinh động, cụ thể như hiện ngay trước mắt người đọc. Chân dung người thiếu nữ có khuôn mặt tròn trịa đầy phúc hậu như ánh trăng đêm rằm; đôi lông mày thanh tú ; miệng cười thì tươi tắn như hoa nở; tiếng nói thì trong trẻo, ngọc ngà; mái tóc đen óng ả hơn cả mây; làn da trắng mịn màng hơn cả tuyết. Chính vẻ đẹp bên ngoài của Vân với vẻ đẹp phúc hậu, hài hòa trong cái nhìn của lễ giáo phong kiến nên được thiên nhiên, tạo hóa chấp nhận: “tuyết nhường”, “mây thua”. Từ đó, giúp người đọc phần nào thấy được tính cách và số phận của nhân vật: tính cách ung dung, tự tại, cuộc đời: bình yên không sóng gió.
Ngay khi dựng lên chân dung và vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân, nhà thơ tập trung bút lực vào miêu tả vẻ đẹp của Kiều trong sự đối sánh với vẻ đẹp của Vân:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Nét đẹp của Kiều là sự vượt bậc về trí tuệ và tầm hồn. Trước hết là vẻ đẹp nhan sắc – ngoại hình của Kiều. Tiếp tục sử dụng thủ pháp ước lệ tượng trưng lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp của con người qua một loạt các hình ảnh: “thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu”, Nguyễn Du đã làm hiện vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt sắc. Nhưng khi miêu tả Kiều, tác giả không miêu tả cụ thể chi tiết như ở Vân mà ngược lại, tác giả tập trung vào một điểm nhìn là đôi mắt “Làn thu thủy nét xuân sơn”: Đôi mắt sáng trong và sâu thẳm như làn nước mùa thu; đôi lông mày thanh thoát như nét núi mùa xuân. Đây chính là lối vẽ “điểm nhãn” cho nhân vật. Bởi đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn con người. Và qua đôi mắt đó của Kiều, ta thấy được tâm hồn trong sáng, sâu thẳm và cuốn hút lạ thường của nhân vật. Vẻ đẹp nhan sắc của Kiều khiến “Hoa ghen – liễu hờn”, thậm chí là nghiêng ngả cả đất nước:
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sử dụng tài tình nghệ thuật nhân hóa “hoa ghen, liễu hờn” kết hợp với nghệ thuật nói quá ” nghiêng nước nghiêng thành ” vừa ngơi ca vẻ đẹp của Kiều; lại vừa có tác dụng dự đoán về số phận, cuộc đời của nàng. Vẻ đẹp đó gợi lên mâu thuẫn, không hài hòa nên chắc chắn cuộc đời nàng sẽ gặp trắc trở. Tiếp đến là vẻ đẹp tài năng của Kiều. Khi tả Thúy Vân, nhà thơ chỉ chú trọng vào khắc họa vẻ đẹp nhan sắc mà không miêu tả tài năng và tâm hồn thì khi tả Thúy Kiều, nhà thơ chỉ tả sắc một phần, còn lại dành phần nhiều vào tài năng:
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Chỉ một câu thơ mà nhà thơ đã nêu được cả sắc lẫn tài, tài năng của Kiều có một chứ không có hai trên đời. Vì được trời phú cho tính thông minh nên ở lĩnh vực nghệ thuật nào Kiều cũng đều giỏi: cầm – kỳ – thi – họa. Tất cả đều đạt đến mức lý tưởng hóa theo quan niệm thẩm mĩ của lễ giáo phong kiến: “Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”. Đặc biệt tài năng của Kiều được nhấn mạnh ở tài đánh đàn: “Cung thương lầu bậc ngũ âm/ Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Nàng thuộc lòng các cung bậc và đánh đàn thành thạo. Hơn thế, nàng còn giỏi sáng tác nhạc: “Khúc nhà tay lựa nên chương/ Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”. Mỗi nàng lần đánh đàn lại cất lên bản “Bạc mệnh” làm cho người nghe phải đau khổ, sầu não. Bài hát chính là tâm hồn, là bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều, biểu hiện một trái tim đa sầu đa cảm và cuộc đời bất hạnh.
Như vậy, chân dung của Kiều là bức chân dung mang tính cách và số phận. Vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp khác người nên làm cho thiên nhiên phải ghen tị “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”; tài năng của Kiều vượt trội hơn người nên chắc chắn theo một quy luật thông thường của định mệnh “Chữ tài đi với chữ tai một vần” hay “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” nên cuộc đời Kiều là cuộc đời của một kiếp hồng nhan bạc mệnh, éo le.
Từ vẻ đẹp chân dung, nhà thơ thể hiện những dự cảm về tính cách, cuộc đời, số phận của Thúy Kiều. Ở đầu đoạn trích, tác giả giới thiệu Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân nhưng sau đó, nhà thơ lại miêu tả chân dung nhân vật Vân trước, Kiều sau. Đó là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ trong việc sử dụng nghệ thuật “đòn bẩy”. Điều đó nhấn mạnh và làm nổi bật được vẻ đẹp độc đáo, vượt trội về cả sắc lẫn tài của nhân vật Thúy Kiều. Mặc dù cùng sử dụng nghệ thuật ước lệ khi miêu tả hai nhân vật nhưng ta thấy được mức độ khác nhau ở mỗi người. Nguyễn Du chỉ dùng bốn câu để tả Vân, còn lại dành mười hai câu để tả Kiều, khi tả Vân chỉ tập trung tả nhan sắc nhưng khi tả Kiều thì tài sắc vẹn toàn. Tuy vậy nhưng ở nhân vật nào cũng hiện lên rất sống động, cụ thể, chân thực, mang vẻ đẹp, tính cách, số phận khác nhau.
Ở bốn câu thơ cuối là tác giả miêu tả về cuộc sống của hai chị em Thúy Kiều:
Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
Sau khi dựng lên bức chân dung của hai chị em, tác giả đưa ra những lời nhận xét chung về cuộc sống của hai người. Họ sống trong một gia đình phong lưu, rất gia giáo và họ đang sống trong tầm tuổi sắp sửa được phép thành lập gia đình. Thành ngữ “trướng rủ màn che” để chỉ một lối sống kín đáo, đây là lối sống của tiểu thư con nhà gia giáo, sống trong bốn bức tường, ít khi giao tiếp bên ngoài để học nữ công gia chánh rất là khuôn phép. Hình ảnh “ong bướm” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ những người đàn ông tán tỉnh phụ nữ không có mục đích tốt đẹp.
Sử dụng bút pháp ước lệ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi lên vẻ đẹp của con người, tác giả Nguyễn Du đã khắc họa thành công vẻ đẹp chân dung hai chị em Thúy Vân – Thúy Kiều. Qua phân tích, ta thấy được vẻ đẹp, tài năng con người và dự cảm về kiếp người tài hoa nhưng bạc mệnh đầy tính nhân văn ở Đại thi hào Nguyễn Du.