Bài thơ Tràng giang bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha. Để có thể ghi nhớ và phân tích tác phẩm, các bạn hãy theo dõi bài viết dưới đây nhé!
Mục lục bài viết
1. Ý nghĩa nhan đề:
Nhan đề này gửi đến nhiều ý nghĩa hơn. “Tràng giang” là từ Hán Việt chỉ con sông dài, trang trọng và cổ kính. Nhà thơ không dùng “trường giang” để thay thế vì “ang” giúp làm nổi bật tiêu đề gợi âm hưởng và cảm giác một dòng sông rộng lớn. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” càng làm tăng thêm cảm xúc chủ đạo của bài thơ, đó là nỗi buồn trước một khoảng không mênh mông rộng lớn.
2. Tóm tắt tác phẩm:
Bài thơ gợi lên cảm xúc khi nhà thơ đứng trước sông Hồng mông mông, với dòng sông dài, con thuyền lượn cong mái chèo và cành đào khô héo lạc lõng gợi cảm giác cô đơn, lẻ loi, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên buồn, cô quạnh, nỗi nhớ quê nhà và nỗi lòng nhân thế trong cảnh nước mất nhà tan.
3. Sơ đồ tư duy bài Tràng giang của Huy Cận:
3.1. Sơ đồ tư duy hướng dẫn phân tích Tràng Giang của Huy Cận:
Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới, với tính cách suy nghĩ tưởng tượng và triết lý, có thể thể hiện sự giao cảm giữa con người và vũ trụ. “Tràng giang” là một trong những bài thơ tiêu biểu của ông, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của ông.
Ngay ở những câu đầu của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh vật cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và chính xác cả cảnh lẫn tình của bài thơ:
Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngã
Củi mội cành khô lạc mấy dòng
Đứng trước khung cảnh mênh mông sông nước, nỗi buồn của tác giả càng được khuếch đại. Ngay khổ thơ đầu, tác giả đã sử dụng những hình ảnh giàu hình ảnh để miêu tả cảnh vật, qua đó tác giả muốn bộc lộ cảm xúc của mình. Hình ảnh “sóng lăn tăn” gợi ra một dải sóng trải dài vô tận, tương tự như nỗi buồn thầm lặng, sâu lắng của nhà thơ. Con sóng giữa sông dài rộng chỉ càng khuếch đại nỗi buồn của nhà thơ thêm mà thôi.
Tất cả cảnh vật, kể cả con thuyền, đều lẻ loi, khiến thi sĩ ngập tràn cảm xúc không biết bày tỏ cùng ai. Tác giả sử dụng những hình ảnh đời thường để đưa vào bài thơ của mình, đó là một phong cách sáng tạo độc đáo của riêng ông.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót,
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Tác giả một lần nữa lại dùng những hình ảnh “cồn, gió, làng, chợ, bến” để giãi bày tâm sự của mình, cảnh vật trở nên thưa và vắng mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì im ắng nên nhà thơ cảm nhận được.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của thường nhật, nhưng không rõ âm thanh đó ở chỗ nào. Nhà thơ đã cố gắng bình tĩnh để lắng nghe cái âm thanh mơ hồ kia, nhưng khôn thể cảm nhận được và nhà thơ đã chuyển nhãn quan của mình đến một điểm mới.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu
Nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý rằng nắng xuống và trời lên để gợi sự chuyển động hai chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Đứng giữa một vùng mênh mông sông nước, đất trời hun hút, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì kéo dài vô tận.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới hình ảnh một kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Bèo trôi không biết dạt về đâu, không có một cái cầu, không chuyến đò để đưa khách, cảnh tưởng như vậy thì làm sao con người thoát được nỗi buồn đây? Để miêu tả cảnh vật đó, tác giả đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất của cuộc đời để có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Sau khi quan sát hết những cảnh vật xung quanh mình, nhà thơ đã hướng nhãn quan của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với động từ “đùn” cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hoàng hôn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là “núi bạc”. Hình ảnh này tuy hiện lên rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nỗi buồn của ông, giống như nỗi buồn tích tụ như núi cùng với đám mây còn có hình ảnh cánh chim.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Tác giả đã sừ dụng tự láy “dợn dợn” để miêu tả những con sóng trôi theo con nước lan tỏa ra tích tắc cho thấy nỗi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra khắp nơi.
Bài thơ Tràng giang đã thể hiện được nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết của nhà thơ. Đứng trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, nhà thơ đã tức cảnh sinh tình, thể hiện cái tình cảm chân thành với quê hương đất nước của chính nhà thơ. Với cách tiếp cận với những vấn đề gần gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở thành một tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam.
3.2. Sơ đồ tư duy phân tích khổ 1 Tràng Giang:
Bước vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên đã khiến người đọc liên tưởng đến một con sông chất chứa bao nỗi buồn sâu thẳm:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu tram ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Khổ thơ đầu tiên miêu tả một khung cảnh rộng lớn của tràng giang, đối lập hoàn toàn với các sự kiện thu nhỏ như sóng, con thuyền, và cành khô. Dù chúng đều gợi lên nỗi buồn theo sóng nước, nhưng chúng không gắn kết với nhau, đặc biệt là giữa thuyền và nước, hai sự vật vốn không thể tách rời. Nỗi buồn trải dài bao trùm cả mặt sông với những từ như “gợn”, “buồn điệp điệp”, “nước song”, “sầu trăm ngả”, “lạc mấy dòng”.
Tuy nhiên, điểm nhấn của khổ thơ chính là hình ảnh của một nhánh cành khô trôi trên dòng sông. Đây là một vật thể không còn sức sống, đang trôi nổi bất định trên dòng sông. Tuy nhiên, nó lại tạo ra một nét hiện đại trong cách khắc họa nỗi buồn và cô đơn. Có thể nó đại diện cho sự nhỏ bé, lên đênh và bất định giữa dòng đời của tác giả chính.
3.3. Sơ đồ tư duy phân tích khổ 2 Tràng Giang:
Đến khổ thơ thứ hai, điểm nhìn của nhân vật trữ tình đã xa hơn, khung cảnh trên sông được hướng vào chiếc cồn nhỏ, vào bầu trời và khắp cả dòng sông.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xe vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Tuy không có âm thanh của sự sống, không gian vẫn giữ nguyên sự vắng lặng và yên ả, khiến cho cảm giác cô đơn và trải nghiệm trở nên rõ ràng hơn. Ngay cả tiếng đồng hồ điểm giờ hay tiếng chợ chiều xa vẫn không làm nơi đây sôi động hơn, mà lại tăng thêm sự im lặng. Khoảng cách giữa bầu trời và dòng sông được miêu tả sâu sắc, khiến cho không gian như mở rộng theo cả ba chiều và trở nên vô tận. Tác giả chỉ còn đối diện với bến cô liêu trống trải, và cảm thấy bé nhỏ, không đủ để đối diện với sự tận thế của vũ trụ.
3.4. Sơ đồ tư duy phân tích khổ 4 Tràng Giang:
Lớp lớp mây cao, đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khung cảnh thiên nhiên đã thay đổi, nhưng lần này không phải là một dòng sông rộng lớn và im lặng như những cảnh trước. Thay vào đó, nó tráng lệ và nổi bật trên nền trời buổi tối. Những yếu tố mây trời, chim muông quen thuộc và cách miêu tả của nhà thơ về những đường nét, màu sắc rực rỡ trên bầu trời vẫn còn hiện diện. Có những tầng mây bạc tụ lại trên bầu trời như những ngọn núi. Đặc biệt, đôi cánh nghiêng của chú chim ghi lại khoảnh khắc chuyển động giữa hai vật thể.
Không rõ cánh chim khẽ nghiêng đã làm bóng chiều đổ xuống hay bóng chiều đè nặng lên cánh chim làm nó chao nghiêng. Tuy nhiên, khoảnh khắc này đã tạo ra sự chuyển dịch nhanh chóng cả về không gian và thời gian. Một lần nữa, lòng người không thể xua tan hoàn cảnh xung quanh. Không gian đã thay đổi nhưng dù có tráng lệ đến đâu thì nhà thơ vẫn cảm thấy trống vắng. Tuy nhiên, lúc này, cảm giác cô đơn đã chuyển thành cảm giác biết ơn về quê hương.
Vô vàn cảnh trên trời, dưới sông gợi lên bao cảm xúc. Từ điểm nhìn trong sáng và sáng tạo này, nhà thơ đã khắc họa một cách chân thực nỗi nhớ quê hương da diết. Biết bao nỗi niềm cuối cùng trào dâng trong nỗi nhớ quê hương da diết. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là ngay cả khi đã ở trên quê hương, họ vẫn cảm thấy một nỗi nhớ da diết. Đó là nỗi niềm chung của cả một thế hệ nhà thơ mới trước tình hình đất nước lúc bấy giờ.
Cảm giác xa quê, “nhớ quê hương” trở thành một cảm xúc có sẵn, không cần đến khói hoàng hôn và sóng biển để khơi gợi nỗi nhớ quê hương, như trường hợp nhà thơ đời Đường. , Thôi Hiệu. Nỗi nhớ quê hương này nảy sinh một cách tự nhiên và sâu sắc, bộc lộ một tình yêu quê hương sâu sắc và nặng trĩu trong mỗi con người.