Qua Đèo Ngang là thi phẩm xuất sắc của nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan, Sơ đồ tư duy Qua Đèo Ngang sẽ cùng các em học sinh tìm hiểu và khái quát toàn bộ nội dung tác phẩm dưới dạng sơ đồ ngắn gọn, các em học sinh hãy cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Sơ đồ tư duy bài thơ Qua đèo Ngang ngắn gọn và dễ hiểu:
2. Khái quát nội dung chính bài thơ Qua đèo ngang:
2.1. Tổng quan cảnh quan Đèo Ngang:
– Thời gian: chiều muộn – thời điểm dễ gợi lên nỗi buồn, sự cô đơn và trống trải.
– Không gian: Đèo ngang – Con đèo hùng vĩ ngăn cách hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh từng là ranh giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài.
– Bối cảnh:
+ Đối tượng: cỏ, lá, đá, hoa.
+ Động từ: trộn vào nhau chứ không xếp hàng, động từ ‘chen’ chèn vào giữa hai câu thơ gợi lên khung cảnh dày đặc, hoang vu, hoang vắng.
2.2. Cuộc sống con người ở Đèo Ngang:
– Phép tu từ đảo ngữ:
‘Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà’
⇒ Nhấn mạnh sự khan hiếm, nhỏ bé của cuộc sống giữa khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, hoang sơ.
⇒ Hình ảnh người xuất hiện thưa thớt và hiếm hoi khiến khung cảnh ngày càng u ám, hiện lên thật gợi cảm xúc, đó là nỗi buồn và sự cô đơn của nhà văn.
2.3. Tâm trạng của tác giả:
– Tiếng chim quốc quốc, gia gia cũng là tiếng nói của tấm lòng nồng nàn của tác giả, nỗi nhớ quê hương sâu sắc và quá khứ quê hương.
– Bài thơ như tiếng thở dài của tác giả.
⇒ Những hiểu biết của tác giả về đất nước, nỗi nhớ quê hương. Đây cũng chính là tâm trạng hoài niệm của nữ nghệ sĩ.
2.4. Nỗi cô đơn tột độ của nhà thơ:
– Con người thật nhỏ bé, cô đơn, lẻ loi, yếu ớt trong vũ trụ rộng lớn bao la.
– ‘một mảnh tình riêng, ta với ta’: nỗi buồn, nỗi cô đơn không có ai sẻ chia.
⇒ Cảm giác cô đơn, trống rỗng, một mình đối mặt với chính mình trong vũ trụ rộng lớn bao la.
3. Cảm nhận về bài thơ Qua đèo ngang đặc sắc nhất:
Có thể nói, “Qua đèo Ngang” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ được nữ thi sĩ viết khi đang trên đường đi Phú Xuân qua đèo ngang, một địa danh nổi tiếng ở nước ta với phong cảnh hữu tình. Bài thơ với giọng thơ, tâm hồn thơ nhẹ nhàng và lối thơ điêu luyện không chỉ là bức tranh đầy màu sắc của thiên niên kỷ mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, hào quang dần phai nhạt với chút tiếc nuối của thời đại phong kiến.
Bài thơ được viết theo thể thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật. Bài thơ bắt đầu bằng hai câu:
‘Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa’
Ngay ở khổ thơ đầu tiên, tác giả đã khái quát toàn bộ hoàn cảnh, không gian, thời gian trong quá trình sáng tác bài thơ. Mở đầu rất tự nhiên, không gượng ép chút nào, tựa như tác giả chỉ “dẫm chân” vào rồi sinh tình trước khung cảnh hoàng hôn “hoàng hôn” chiều đèo Ngang. Hình ảnh ‘bóng xế tà’ được lấy cảm hứng từ thành ngữ ‘Chiều ta bóng xế’ gợi nhớ về một ngày u ám, vô phương hướng, có chút nuối tiếc đã trôi qua. Trong khung cảnh hoàng hôn đẹp nhưng buồn này, tác giả nhận thấy một số hình ảnh độc đáo của đèo Ngang: ‘cỏ cây chen đá, lá chen hoa’. Nói về các loại cảnh vật được nhân hóa lên có động từ “chen”, ta có thể thấy sự sinh động trong bức tranh cảnh vật này. Cỏ cây cùng lá và hoa nở rộ, thi nhau vươn lên giữa những tảng đá. Những hình ảnh tuy nhỏ nhưng sức sống của chúng lại rất mãnh liệt. Trong ánh chiều nhạt dần, chúng ta vẫn có thể bắt gặp những cảnh vật để lại cho chúng ta nhiều suy nghĩ.
Hai câu này thực ra là khi người viết đang trên đèo cao nhìn quanh, đằng sau những tảng đá, ngọn núi và cây cối, để tìm bóng người:
‘Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà’
Hình ảnh người xuất hiện nhưng dường như chỉ làm bức tranh thêm u ám. Để thể hiện điều này, người viết sử dụng phép đảo ngữ với từ láy miêu tả đặc sắc. Ở đây chỉ có ‘dưới núi tiều vài chú’ kết hợp với từ láy ‘lom khom’ dưới núi. Cảnh quan “rải rác” và ít nhà khiến mọi thứ thật nhỏ bé so với khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo ngang. Một bầu không khí hoang tàn, cô đơn dường như bao trùm khắp khung cảnh.
Hai câu này thể hiện rõ nỗi buồn bằng âm thanh buồn của quê hương.
‘Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia’
Tiếng kêu tha thiết là tiếng nói của trái tim nhà văn. ‘nhớ nước đau lòng con quốc quốc’ là một bài thơ trong từ điển cũ kể về vua Thục mất nước, trở thành một con cuốc cuốc chỉ biết kêu “cuốc cuốc’. Tiếng cuốc khiến bóng tối buổi chiều càng yên tĩnh hơn. Chữ ‘gia gia’ là tiếng kêu chân thành gợi lên “tình quê hương”. Ở đây cảm xúc của nhà thơ được thể hiện rõ ràng. Khả năng chơi đồng âm độc đáo, kết hợp thể hiện và chuyển tải cảm xúc đã cho chúng ta thấy tấm lòng yêu nước của Bà Huyện Thanh Quan.
Hai câu cuối kết thúc cả cảm xúc của bài thơ và cảnh vật thiên nhiên:
‘Dừng chân đứng lại: Trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta’
Khung cảnh đèo Ngang hùng vĩ đến mức người viết dừng lại không muốn rời. Dường như sự bao la của trời, đất, núi, sông đều giữ chân nhà thơ. Nhưng đứng trước không gian rộng lớn và hùng vĩ này, người viết chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình bắt đầu dần dâng lên, ‘một mảnh tình riêng ta với ta’. Cảnh quan thiên nhiên càng vĩ đại, sự cô độc của con người càng lớn. Một mảnh tình riêng, một tấm lòng sâu lắng, những nỗi đau trong lòng không thể sẻ chia cùng ai. Âm hưởng nhịp nhàng của câu thơ như tiếng thở dài tiếc nuối.
“Qua Đèo Ngang” là lời nhắn nhủ từ tấm lòng của tác giả gửi đến người đọc. Bài thơ không chỉ là hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ với nỗi buồn mà còn là sự tiếc nuối và tấm lòng yêu nước, yêu dân. Chỉ có Bà Huyện Thanh Quan chắc phải quá xúc động, quá yêu thiên nhiên và con người mới có thể để lại những kiệt tác thơ như vậy.
4. Cảm nhận về bài thơ Qua đèo ngang sâu sắc nhất:
Có thể nói, Bà Huyện Thanh Quan là một trong những nữ thi sĩ hiếm có và tài năng trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Tác phẩm tiêu biểu của nữ thi sĩ phải kể đến bài thơ ‘Qua Đèo Ngang’. Bài thơ đã gây ra nhiều cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc.
Mở đầu bài thơ, tác giả giúp người đọc ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên đèo Ngang trong buổi chiều muộn:
‘Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa’
Từ ‘bóng xế tà’ dùng để chỉ thời điểm cuối ngày, khi mọi người thường trở về nhà sau một ngày làm việc vất vả. Tuy nhiên, nhà thơ chỉ có một mình ở đèo Ngang, điều đó càng khiến nỗi cô đơn của nữ thi sĩ càng trở nên tột cùng. Cảnh đèo Ngang xuyên suốt bài thơ ‘cỏ chen đá, lá chen hoa; là hình ảnh ước lệ, tượng trưng. Việc dùng từ “chen” với hình ảnh “đá, lá, hoa” rất ấn tượng. Tác giả đã đưa ra khung cảnh thiên nhiên hoang sơ nhưng đầy sức sống. Nhà thơ miêu tả cảnh quan thiên nhiên đèo Ngang chỉ bằng vài dòng nhưng trông rất
Con người hiện lên trong hình ảnh thiên nhiên hoang sơ, bao la. Nghệ thuật đảo chữ ‘lom khom’, ‘tiều vài chú’ thể hiện hình ảnh vài chú tiều đang cúi mình dưới chân núi. Và ‘lác đác’, ‘chợ mấy nhà’ gợi lên hình ảnh vài ngôi nhà nhỏ thưa thớt nằm rải rác ven sông. Ở đây, nhà thơ muốn nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người trước sự bao la của thiên nhiên. Con người chỉ là một điểm lặng buồn giữa thiên nhiên bao la. Cảnh vật và con người dường như xa xăm, càng khiến không khí thêm hoang vắng, cô đơn. Sau này, nỗi nhớ nhà của nhà thơ hiện lên trước khung cảnh của Đèo ngang:
‘Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia’‘
Hình ảnh ‘con quốc quốc’ cùng ‘cái gia gia’ không chỉ là hình ảnh thực tế của hai loại chim. Dùng thủ pháp động từ để miêu tả tĩnh: quốc quốc, gia gia để bày tỏ nỗi nhớ quê hương, tổ quốc. Khi đọc đến đây, chúng ta dường như nghe thấy những tiếng kêu đau đớn và da diết vang vọng vô ích.
Cuối cùng, nhà thơ cảm thấy cô đơn. ‘Dừng chân dứng lại trời non nước’ thể hiện hình ảnh nhà thơ đứng một mình ở Đèo ngang, nhìn ra xa và chỉ thấy thiên nhiên bao la (bầu trời, núi nontrước mặt, dòng sông). Nỗi cô đơn của nhà thơ: “tình riêng” – những tâm tình riêng của một nhà thơ không có ai sẻ chia:
‘Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta’
Như vậy, tác phẩm ‘Qua Đèo ngang’ của nữ thi sĩ Bà Huyện Thanh Quan đã giúp người đọc không chỉ ngắm nhìn vẻ đẹp thiên nhiên của Đèo Ngang mà còn cảm nhận được một tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc.