Nông nghiệp Nhật Bản bắt đầu cùng với việc trồng lúa. Và trong số các loại cây nông nghiệp được trồng ở Nhật Bản từ thời xa xưa còn có lúa mì, lúa mạch, kê, đỗ tương, củ cải. Để hiểu hơn về nền sản xuất nống nghiệp của Nhật bản, mời bạn tham khảo bài viết Sản xuất nông nghiệp ở Nhật Bản hoàn toàn phát triển theo hướng thâm canh gì? dưới đây
Mục lục bài viết
1. Sản xuất nông nghiệp ở Nhật Bản hoàn toàn phát triển theo hướng thâm canh gì?
A. Đất nông nghiệp quá ít, không có khả năng mở rộng.
B. Sản xuất thâm canh có chi phí cao.
C. Sản xuất thâm canh mang lại nhiều lợi nhuận mà chi phí lại thấp.
D. Nhật Bản thiếu lao động, sản xuất thâm canh sẽ sử dụng ít lao động hơn quảng canh.
Đáp Án: A
Giải thích:
Sản xuất nông nghiệp ở Nhật Bản phát triển theo hướng thâm canh do đặc điểm địa hình chủ yếu là đồi núi (chủ yếu là núi lửa). Diện tích cho sản xuất nông nghiệp ít, chỉ chưa đầy 14% lãnh thổ. Mặt khác, phần lớn vùng đồng bằng được sử dụng cho mục đích công nghiệp hay các khu dân cư – đô thị nên khả năng mở rộng đất nông nghiệp không có.
Vì vậy áp dụng thâm canh sẽ giúp tăng năng suất, sản lượng của cây trồng -> khai thác có hiệu quả diện tích đất nông nghiệp của vùng, đem lại giá trị kinh tế cao.
2. Nền sản xuất nông nghiệp ở Nhật Bản xưa và nay:
Trước cuộc cải cách Duy Tân Minh Trị vào năm 1868, có đến 80% dân số Nhật Bản làm nông nghiệp và lúa là nông sản chính. Thời đó tại Nhật các phương pháp thâm canh cần nhiều lao động, mỗi hộ gia đình cũng chỉ có một phần diện tích ruộng hạn chế.
Kể từ sau Minh Trị Duy Tân, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp và đô thị hóa đã ảnh hưởng rất lớn tới nền nông nghiệp Nhật Bản. Tỉ lệ nông dân, đất canh tác cũng như tầm quan trọng của nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế đều giảm đi. Ảnh hưởng bởi xu hướng đó nhiều sự kiện và tập quán trong đời sống nông thôn tại Nhật Bản bắt đầu mất đi tầm quan trọng vốn có.
Nông nghiệp Nhật Bản bắt đầu cùng với việc trồng lúa. Và trong số các loại cây nông nghiệp được trồng ở Nhật Bản từ thời xa xưa còn có lúa mì, lúa mạch, kê, đỗ tương, củ cải. Các nông cụ cổ nhất làm bằng gỗ hoặc đá. Khi kỹ thuật từ lục địa giúp sản xuất ra các dụng cụ bằng sắt, nông nghiệp đạt tiến bộ nhanh chóng và những vùng đất đai bị bỏ hoang suốt thời gian dài được tận dụng để canh tác.
Từ cuối thời Heian (794-1185), những gia đình có thế lực nổi lên ở các tỉnh và trở nên giàu có nhờ sản xuất nông nghiệp. Khi kiểm soát được chính quyền trong thời Kamakura (1185-1333), họ tỏ ra quan tâm đến nông nghiệp nhiều hơn so với giới cai trị trước đó và khuyến khích nhiều cải tiến.
Với sự xuất hiện của nhiều thành phố và thị trấn trong thời Edo (1603-1868), tỉ lệ dân số không làm nghề nông tăng lên và các nông dân bị đòi hỏi phải sản xuất ngày càng nhiều hơn.
Tuy nhiên, hơn một nửa số gạo sản xuất ra bị thu dưới hình thức thuế đất đai và nông dân thường xuyên không còn đủ để đáp ứng nhu cầu của bản thân. Họ phải trồng thêm lúa mạch, lúa mì hoặc kê. Sản lượng nông nghiệp tăng lên nhờ những nỗ lực trong 3 lĩnh vực: khai hoang, phân bón và lai giống cây trồng.
Đến nay, người ta sẽ thấy 1 nền nông nghiệp Nhật Bản hiện đại, tự động, đem lại hiệu quả cao gấp hàng chục lần các phương pháp làm nông nghiệp truyền thống.
Trong thời kỳ Nhật Bản tích cực hướng tới hiện đại hóa sau Minh Trị Duy Tân, các phương pháp canh tác của phương Tây được nghiên cứu kỹ lưỡng.
Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên của đất đai ở Nhật hoàn toàn khác so với ở phương Tây, chỉ áp dụng cách trồng cấy với kỹ thuật của nước ngoài thì không hiệu quả. Do vậy người ta thay đổi trọng tâm, trở lại coi gạo là sản phẩm chính và phát triển những phương pháp thâm canh.
Nhà nước lập các trung tâm thử nghiệm để tiến hành lai ghép những loại cây nông nghiệp quan trọng.
Trong số tất cả các chương trình cải cách sau Thế chiến 2, có lẽ Cuộc cải cách ruộng đất năm 1946 là thành công nhất trong việc tạo ra những thay đổi cơ bản và rộng khắp ở Nhật Bản.
Việc phân phối lại đất đai một cách mạnh mẽ đã gần như chấm dứt tình trạng thuê đất vào năm 1949 và kết quả là khoảng 90% đất canh tác do chính người sở hữu tự trồng cấy.
Tình trạng thiếu lương thực sau chiến tranh, giá cả cao, sự tồn tại của một chợ đen buôn bán gạo và lạm phát trong xã hội khi đó chính là những yếu tố tạo thuận lợi cho các nông dân Nhật Bản. Nói chung họ trả nợ cho diện tích ruộng đất mới của mình khá dễ dàng và bắt đầu đầu tư vốn để hợp lý hóa nông nghiệp.
Chính phủ giúp đỡ nhà nông bằng cách lập các chương trình hỗ trợ giá, nhất là đối với gạo. Chính phủ cũng dành sự ủng hộ mạnh mẽ cho các trường kỹ thuật nông nghiệp, các trung tâm thử nghiệm và các chương trình mở rộng.
Các hợp tác xã nông nghiệp đẩy mạnh những hoạt động tích cực kể trên của chính phủ bằng cách cho vay với lãi xuất thấp và tiến hành tiếp thị theo nhóm ở cấp độ làng xã.
Kết quả cuối cùng là hình thành một lực lượng nông dân tương đối dư giả, có học thức, được ưu đãi và có vốn cần thiết để mua giống mới cũng như phân bón để tăng sản lượng, đồng thời mua máy móc để giảm bớt nhu cầu về lao động
Nhật Bản bắt đầu bị thiếu lao động vào cuối thập niên 50, sau khi bắt đầu tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Nhu cầu lớn về lao động tại các trung tâm công nghiệp đô thị khiến cho ngày càng nhiều người rời bỏ nông thôn. Một phần lớn trong lực lượng làm nghề nông khi đó là những người trên 45 tuổi.
Bên cạnh đó, rất nhiều người chỉ làm nghề này theo thời vụ và hơn một nửa lực lượng lao động là phụ nữ. Xu hướng đi xuống này kéo dài cho tới tận nay. Nếu năm 1960, 26,8% lực lượng lao động là nông dân thì đến năm 1995 chỉ còn 5,1%. Năm 1965, thu nhập từ nông nghiệp của mỗi hộ gia đình nông dân còn chiếm 48% tổng thu nhập, nhưng đến năm 1996 chỉ còn là 21,1%.
Theo thống kê của Bộ nông-lâm-ngư nghiệp, tổng thu nhập bình quân mỗi năm của một hộ gia đình nông dân Nhật Bản trong năm 1996 là 6.647.400 yen, tính theo tỉ giá khi đó là vào khoảng 64.000 đôla.
Dường như nông nghiệp Nhật Bản không thể thành công nếu không có sự phổ biến của máy móc, hóa chất và những thiết bị giúp tiết kiệm lao động.
Hiện tại việc canh tác hầu như được làm bằng máy. Các phương pháp canh tác truyền thống nhanh chóng nhường chỗ cho các máy cày, máy ủi và nhiều loại máy móc khác. Nhờ tất cả những yếu tố đó, tổng sản lượng gạo của Nhật Bản tăng từ 9,5 triệu tấn trong năm 1950 lên 13 triệu tấn vào năm 1975.
Song mức tiêu thụ gạo tính theo đầu người đã giảm đi và chính phủ đang lo ngại với nhiều vấn đề như sản xuất quá nhiều và tồn kho quá lớn. Các nông dân được khuyến khích, có khi được trợ cấp, để chuyển từ trồng gạo sang các loại khác.
Chính sách điều chỉnh sản xuất của chính phủ đã khiến bị thiếu gạo vào năm 1993 vì sản lượng gạo quá thấp. Những thay đổi về thói quen ăn uống của người Nhật cũng làm tăng mức sản xuất thịt, các sản phẩm sữa và rau quả.
3. Phương pháp canh tác sản xuất nông nghiệp ở Nhật Bản:
Nền nông nghiệp Nhật Bản đạt được nhiều thành tựu ưu việt bắt nguồn từ phương pháp nông nghiệp và sự kỷ cương từ con người của họ.
Nền nông nghiệp Nhật Bản phát triển theo hướng thâm canh. Họ áp dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, hiện đại nhằm thúc đẩy, tăng năng suất, đảm bảo chất lượng cây trồng, vật nuôi và nống sản hiệu quả.
Họ ứng dụng trồng cây trong khu vực nhà kính. Trồng trọt một cách khép kín đảm bảo công đoạn tiêu chuẩn trên công nghệ khoa học hiện đại. Từ việc ươm mầm, cấy trồng cây, chăm sóc đến thu hoạch, tất cả đều được thực hiện một cách gói gọn trong những khung nhà kính giúp bảo quản giống cây trồng và sản lượng thực phẩm tạo ra tốt nhất.
Kỹ thuật trồng cây trong nhà kính đã giúp họ gia tăng năng suất và chất lượng cây trồng cũng như sản phẩm đưa ra thị trường.
Đây được xem là nông nghiệp “kiểu mẫu” mà các quốc gia khác và đặc biệt là Việt Nam nên học tập và ứng dụng để đạt được nhiều thành tựu tích cực sản xuất nông nghiệp của quốc gia mình.
THAM KHẢO THÊM: