Trong quá trình chấp hành án, nếu người bị kết án có nhiều tiến bộ, chấp hành tốt pháp luật và nghĩa vụ của mình, họ có thể được xem xét rút ngắn thời gian thi hành án treo hoặc cải tạo không giam giữ. Đây là một trong những chính sách nhân đạo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật Việt Nam đối với người phạm tội biết ăn năn, sửa chữa lỗi lầm. Dưới đây là tổng hợp quy định của pháp luật về rút ngắn thời gian thi hành án treo, cải tạo không giam giữ.
Mục lục bài viết
1. Quy định về rút ngắn thời gian án phạt cải tạo không giam giữ:
1.1. Điều kiện giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ:
Khoản 1 Điều 102 Luật Thi hành án hình sự 2019 quy định người chấp hành án có thể giảm thời hạn chấp hành án khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Thứ nhất: Đã chấp hành được một phần ba thời hạn án phạt; đối với người dưới 18 tuổi thì phải chấp hành được một phần tư thời hạn án phạt.
- Thứ hai: Trong thời gian thử thách người chấp hành án đã chấp hành nghiêm chỉnh các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 99 Luật Thi hành án hình sự 2019; tích cực học tập, lao động, sửa chữa lỗi lầm hoặc lập thành tích trong lao động, bảo vệ an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng.
- Thứ ba: Bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự trong trường hợp có nghĩa vụ dân sự.
1.2. Thời gian giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ:
Theo khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 102 Luật Thi hành án hình sự 2019 thì thời gian giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ được quy định như sau:
(1) Người chấp hành án mỗi năm được xét giảm thời hạn chấp hành án 01 lần, mỗi lần có thể được giảm từ 03 tháng đến 09 tháng.
(2) Người chấp hành án có thể được giảm thời hạn chấp hành án nhiều lần nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án là một phần hai mức án, đối với người chấp hành án là người dưới 18 tuổi thì phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án là hai phần năm mức án.
(3) Người chấp hành án đã lập công, người đã quá già yếu hoặc người bị bệnh hiểm nghèo đã chấp hành được một phần tư thời hạn án phạt thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành án, mức giảm mỗi lần cao nhất là 01 năm nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án là hai phần năm mức án.
(4) Người chấp hành án là người dưới 18 tuổi nếu lập công hoặc bị bệnh hiểm nghèo thì được xét giảm ngay. Trường hợp đã chấp hành được hai phần năm mức án thì có thể được giảm hết thời hạn còn lại.
1.3. Thủ tục giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ:
Thủ tục giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ theo Điều 103 Luật Thi hành án hình sự 2019 như sau:
Theo quy định tại Điều 103 Luật Thi hành án hình sự năm 2019, việc xét giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ được thực hiện theo trình tự gồm 05 bước cơ bản như sau:
Bước 1: Rà soát và đề nghị giảm thời hạn chấp hành án.
Ủy ban nhân dân cấp xã (nơi người chấp hành án cư trú) hoặc đơn vị quân đội (nếu người đó là quân nhân) có trách nhiệm:
- Rà soát, đánh giá những người đang chấp hành án có đủ điều kiện được xem xét giảm thời hạn theo quy định của pháp luật;
- Lập báo cáo kèm các tài liệu chứng minh quá trình chấp hành tốt, tiến bộ, lập công hoặc có hoàn cảnh đặc biệt;
- Gửi hồ sơ này đến Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu (đối với quân nhân) để đề nghị xem xét giảm thời hạn chấp hành án.
Bước 2: Cơ quan thi hành án hình sự lập hồ sơ và gửi đề nghị lên Tòa án.
Sau khi nhận được báo cáo từ Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội, cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền tiến hành xem xét, xử lý như sau:
- Trong thời hạn 07 ngày, nếu xét thấy người chấp hành án đủ điều kiện, Cơ quan thi hành án hình sự (hoặc Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu) sẽ lập hồ sơ và có văn bản đề nghị giảm thời hạn chấp hành án gửi đến Tòa án và Viện kiểm sát cùng cấp;
- Trường hợp không đủ điều kiện, cơ quan thi hành án hình sự phải thông báo bằng văn bản cho UBND cấp xã hoặc đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án, nêu rõ lý do không lập hồ sơ.
Bước 3: Chuẩn bị hồ sơ đề nghị giảm thời hạn chấp hành án.
Hồ sơ đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ được lập đầy đủ, hợp lệ. Bao gồm:
- Đơn đề nghị giảm thời hạn chấp hành án của người đang chấp hành án;
- Bản sao bản án (lần đầu) hoặc bản sao quyết định thi hành án (đối với trường hợp đề nghị từ lần thứ 02 trở đi);
- Văn bản đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục;
- Tài liệu chứng minh: Quyết định khen thưởng hoặc giấy xác nhận của cơ quan có thẩm quyền (nếu người chấp hành án lập công hoặc có thành tích); kết luận của bệnh viện cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên (nếu người chấp hành án bị bệnh hiểm nghèo); tài liệu thể hiện đã thực hiện được một phần nghĩa vụ dân sự (nếu có);
- Bản sao quyết định giảm thời hạn chấp hành án (nếu đã được giảm ở các lần trước);
- Các tài liệu khác có liên quan đến quá trình chấp hành án và đề nghị rút ngắn.
Bước 4: Tòa án xem xét và quyết định giảm thời hạn chấp hành án.
Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị:
- Trong thời hạn 07 ngày, Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện (hoặc Chánh án Tòa án quân sự khu vực) nơi người chấp hành án cư trú hoặc làm việc sẽ thành lập Hội đồng và tổ chức phiên họp xét giảm thời hạn chấp hành án.
- Hội đồng xét gồm 03 Thẩm phán. Đồng thời, phiên họp có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp để đảm bảo việc xem xét khách quan, đúng pháp luật.
- Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, Tòa án yêu cầu bổ sung, và thời hạn mở phiên họp được tính lại từ ngày nhận đủ hồ sơ bổ sung.
- Sau khi xem xét, Hội đồng có thể ra một trong ba loại quyết định:
+ Chấp nhận toàn bộ đề nghị giảm thời hạn chấp hành án;
+ Chấp nhận một phần (giảm ít hơn mức đề nghị);
+ Không chấp nhận việc giảm thời hạn chấp hành án.
Bước 5: Gửi và thi hành quyết định của Tòa án.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định, Tòa án phải gửi bản quyết định về việc giảm thời hạn chấp hành án đến các cơ quan, tổ chức có liên quan, bao gồm:
- Người đang chấp hành án;
- Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp;
- Cơ quan đề nghị giảm thời hạn chấp hành án (Công an cấp huyện hoặc cấp quân khu);
- Tòa án đã ra quyết định thi hành án;
- Sở Tư pháp nơi Tòa án ra quyết định giảm thời hạn chấp hành án đặt trụ sở.
Quyết định của Tòa án có hiệu lực ngay và là căn cứ pháp lý để cơ quan thi hành án hình sự và UBND cấp xã, đơn vị quân đội chấm dứt hoặc điều chỉnh thời gian giám sát, giáo dục đối với người được giảm thời hạn chấp hành án.
2. Quy định về rút ngắn thời gian thi hành án treo:
2.1. Điều kiện rút ngắn thời gian thi hành án treo:
Theo Điều 8 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP, người được hưởng án treo có thể được xem xét rrút ngắn thời gian thử thách của án treo khi có đủ các điều kiện sau:
(1) Đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách của án treo;
(2) Có nhiều tiến bộ được thể hiện bằng việc trong thời gian thử thách người được hưởng án treo đã chấp hành nghiêm pháp luật, các nghĩa vụ theo Luật Thi hành án hình sự 2019; tích cực học tập, lao động, sửa chữa lỗi lầm hoặc lập thành tích trong lao động sản xuất, bảo vệ an ninh Tổ quốc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng.
(3) Được Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo đề nghị rút ngắn thời gian thử thách bằng văn bản.
2.2. Thời gian rút ngắn thời gian thi hành án treo:
Thời gian rút ngắn thời gian thi hành án treo được thực hiện theo khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP. Cụ thể như sau:
Mỗi năm người được hưởng án treo chỉ được rút ngắn thời gian thử thách một lần từ 01 tháng đến 01 năm. Người được hưởng án treo có thể được rút ngắn thời gian thử thách nhiều lần nhưng phải bảo đảm thực tế chấp hành thời gian thử thách là ba phần tư thời gian thử thách Tòa án đã tuyên.
Trường hợp người được hưởng án treo đã được cơ quan có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo, nhưng không được Tòa án chấp nhận, nếu những lần tiếp theo mà họ có đủ điều kiện thì Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo tiếp tục đề nghị rút ngắn thời gian thử thách cho họ.
2.3. Quy trình rút ngắn thời gian thi hành án treo:
Điều 7 Thông tư liên tịch 03/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP quy định phối hợp thực hiện thủ tục rút ngắn thời gian thử thách đối với người được tha tù trước thời hạn quy định về hồ sơ, thủ tục đề nghị rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo. Cụ thể như sau:
- Hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 90 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019;
- Thủ tục đề nghị rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo thực hiện theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 90 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019;
- Khi thực hiện chức năng kiểm sát thi hành án việc rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo, Viện kiểm sát có thẩm quyền phát hiện người được hưởng án treo có đủ điều kiện rút ngắn thời gian thử thách nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền đề nghị thì có văn bản yêu cầu cơ quan có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách cho họ.
Trình tự, thủ tục xét, quyết định rút ngắn thời gian thử thách và thi hành quyết định rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo được thực hiện theo Điều 8 Thông tư liên tịch 03/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP quy định phối hợp thực hiện thủ tục rút ngắn thời gian thử thách đối với người được tha tù trước thời hạn. Cụ thể như sau:
Trình tự, thủ tục xét, quyết định rút ngắn thời gian thử thách và thi hành quyết định rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 85 và khoản 4, khoản 5 Điều 90 của Luật Thi hành án hình sự 2019; khoản 3 Điều 4, Điều 5 và Điều 6 của Thông tư liên tịch 03/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP.
3. So sánh giữa rút ngắn thời gian án treo và rút ngắn thời gian cải tạo không giam giữ:
Mặc dù án treo và cải tạo không giam giữ đều là hình phạt không buộc người phạm tội phải cách ly khỏi xã hội. Tuy nhiên về bản chất, cơ chế giám sát, điều kiện và trình tự rút ngắn thời gian thi hành hai loại án này có những điểm tương đồng và khác biệt nhất định. Việc so sánh giúp hiểu rõ hơn mục đích, phạm vi áp dụng và quyền lợi của người đang chấp hành án.
3.1. Điểm giống nhau giữa rút ngắn thời gian án treo và cải tạo không giam giữ:
Thứ nhất, cả án treo và án cải tạo không giam giữ đều có cơ chế rút ngắn thời gian thi hành hoặc thử thách nhằm khuyến khích người phạm tội cải tạo tốt, chấp hành nghiêm túc pháp luật và các nghĩa vụ trong thời gian thi hành án. Cơ chế này được quy định trong Luật Thi hành án hình sự năm 2019 (Điều 89 và Điều 91) và được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư liên tịch số 04/2025/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC. Mục tiêu chung là tạo động lực để người phạm tội phấn đấu, sớm hòa nhập cộng đồng, thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước.
Thứ hai, về nguyên tắc xem xét, cả án treo và án cải tạo không giam giữ đều yêu cầu người chấp hành án phải có quá trình cải tạo tốt, không vi phạm pháp luật, có tiến bộ rõ rệt, đồng thời được chính quyền địa phương hoặc đơn vị quân đội xác nhận. Trong một số trường hợp đặc biệt như lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, người chấp hành án có thể được xem xét rút ngắn thời gian sớm hơn.
Thứ ba, về giới hạn rút ngắn, pháp luật đều quy định mỗi năm chỉ được xét rút ngắn một lần, với mức giảm từ 01 tháng đến 01 năm và người được hưởng rút ngắn nhiều lần phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất 3/4 tổng thời gian thi hành hoặc thử thách.
Thứ tư, thẩm quyền và trình tự xét rút ngắn đều được thực hiện qua 03 cấp:
- Cơ quan giám sát, giáo dục (Ủy ban nhân dân cấp xã/phường hoặc đơn vị quân đội) rà soát, đề xuất;
- Cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện hoặc cấp quân khu lập hồ sơ đề nghị;
- Tòa án là cơ quan có thẩm quyền cuối cùng ra quyết định.Phiên họp xét rút ngắn có sự tham gia của Hội đồng gồm 03 Thẩm phán và Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp, đảm bảo tính khách quan, minh bạch trong việc đánh giá và ra quyết định.
3.2. Điểm khác nhau giữa rút ngắn thời gian án treo và cải tạo không giam giữ:
Mặc dù có nhiều điểm tương đồng về nguyên tắc nhưng án treo và án cải tạo không giam giữ có sự khác biệt đáng kể về bản chất pháp lý, đối tượng áp dụng và cơ chế giám sát, dẫn đến sự khác biệt trong việc rút ngắn thời gian thi hành án, cụ thể:
Thứ nhất, về bản chất hình phạt:
- Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng khi người bị kết án phạt tù không quá 03 năm, có nhân thân tốt và không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội. Người được hưởng án treo phải chịu thời gian thử thách (từ 01 năm đến 05 năm);
- Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính, buộc người phạm tội lao động, học tập, sinh sống tại địa phương dưới sự giám sát của chính quyền trong thời gian từ 06 tháng đến 03 năm. Người chấp hành án phải khấu trừ một phần thu nhập (từ 5% đến 20%) để nộp vào ngân sách Nhà nước;
- Sự khác biệt này khiến rút ngắn thời gian thử thách của án treo chủ yếu mang ý nghĩa chấm dứt sớm việc giám sát và giáo dục. Trong khi rút ngắn thời gian cải tạo không giam giữ không chỉ giảm thời hạn chịu hình phạt mà còn giảm nghĩa vụ lao động, khấu trừ thu nhập của người phạm tội.
Thứ hai, về cơ quan giám sát:
- Đối với án treo, người được hưởng án chịu sự giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội nơi cư trú hoặc làm việc;
- Đối với cải tạo không giam giữ, ngoài Ủy ban nhân dân xã và đơn vị quân đội thì còn có cơ quan, tổ chức hoặc đơn vị nơi người đó làm việc, học tập cùng tham gia giám sát, đánh giá quá trình chấp hành nghĩa vụ. Điều này khiến hồ sơ đề nghị rút ngắn án cải tạo không giam giữ thường phức tạp hơn do cần thêm xác nhận của nơi làm việc và cơ quan chuyên trách về việc hoàn thành nghĩa vụ.
Thứ ba, về tác động thực tế của quyết định rút ngắn:
- Với án treo, việc được rút ngắn thời gian thử thách giúp người phạm tội sớm được coi là đã chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích nhanh hơn (sau 01 năm kể từ ngày hết thời gian thử thách);
- Với cải tạo không giam giữ, việc rút ngắn giúp người chấp hành án giảm gánh nặng nghĩa vụ tài chính và hành chính; đồng thời được sớm phục hồi quyền công dân đầy đủ (như quyền ứng cử, quyền lao động trong một số ngành nghề có điều kiện…).
3.3. Thực tiễn áp dụng và những vướng mắc thường gặp:
Trong thực tế, việc rút ngắn thời gian thử thách của án treo được áp dụng khá phổ biến do phần lớn người chấp hành án treo có nhân thân tốt, chấp hành nghiêm pháp luật và dễ dàng đáp ứng điều kiện. Ngược lại, với án cải tạo không giam giữ, số lượng trường hợp được rút ngắn ít hơn vì việc đánh giá mức độ cải tạo và nghĩa vụ khấu trừ thu nhập cần sự phối hợp của nhiều cơ quan, dễ phát sinh chậm trễ.
Bên cạnh đó, một số địa phương còn thiếu sự thống nhất trong quy trình lập hồ sơ, đặc biệt là về thời điểm đề nghị rút ngắn và mức độ chứng minh “tiến bộ rõ rệt” của người chấp hành án. Điều này dẫn đến việc cùng một hành vi, cùng quá trình cải tạo nhưng kết quả xét rút ngắn ở các địa phương khác nhau có thể không đồng nhất.
Tuy nhiên nhìn chung, quy định về rút ngắn thời gian thi hành án treo và cải tạo không giam giữ vẫn được đánh giá là hợp lý, nhân văn và phù hợp với thực tiễn cải cách tư pháp hiện nay. Điều này không chỉ khuyến khích người phạm tội sửa sai, hướng thiện mà còn góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án hình sự tại cộng đồng.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


