Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt phù hợp (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức hình phạt cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự để áp dụng cho người phạm tội. Quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng là tiền đề cho việc đạt được mục đích của hình phạt.
1. Khái niệm quyết định hình phạt:
Điều 30
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Toà án quyết định”.
Như vậy, mục đích của hình phạt luôn luôn có hai mặt: trừng trị và giáo dục; hai mặt này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và là hai mặt của một thể thống nhất, khi quyết định hình phạt,
Do vậy, quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn rất quan trọng, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự do thẩm phán và hội thẩm nhân dân tiến hành đối với người thực hiện tội phạm theo một trình tự nhất định. Ngoài ra, nó còn là một dạng hoạt động pháp lý tố tụng hình sự, bởi vì để quyết định hình phạt, Tòa án phải dựa vào kết quả của các giai đoạn tố tụng hình sự khác như kết quả hoạt động điều tra, truy tố và kết quả hoạt động của mình ở giai đoạn xét xử để tuyên một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Nội dung của quyết định hình phạt thể hiện ở hai vấn đề:
Thứ nhất, Tòa án lựa chọn một trong các hình phạt cụ thể được quy định trong Điều 28 và các điều luật tại Phần các tội phạm Bộ luật hình để định hình phạt đối với bị cáo.
Thứ hai, xác định mức hình phạt cụ thể đối với Hai nội dung đó được tiến hành theo trình tự nhất định và được thực hiện khi áp dụng cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
Từ sự phân tích trên và xuất phát từ góc độ luật hình sự chúng ta có thể đưa ra khái niệm quyết định hình phạt như sau: Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể?
2. Các nguyên tắc quyết định hình phạt:
Để quyết định hình phạt đối với người phạm tội dù họ thực hiện một tội phạm hay thực hiện nhiều tội phạm đúng pháp luật, công bằng và hợp lý, khi áp dụng các chế tài luật hình sự, Tòa án phải tuân theo một số nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc đó được gọi là các nguyên tắc quyết định hình phạt. Đây là những tư tưởng chỉ đạo, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình Tòa án áp dụng những quy phạm pháp luật hình sự để quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Các nguyên tắc quyết định hình phạt là một trong những nội dung quan trọng của chế định quyết định hình phạt, cần phải được nhận thức một cách đầy đủ, toàn diện trong khi áp dụng các chế tài hình sự để quyết định hình phạt. Việc nghiên cứu làm sáng tỏ các nguyên tắc quyết định hình phạt tạo tiền đề thuận lợi để quyết định hình phạt đúng pháp luật. Nếu nhận thức không đúng các nguyên tắc quyết định hình phạt sẽ dẫn đến việc áp dụng không đúng các quy phạm pháp luật hình sự dẫn đến việc quyết định hình phạt sai.
Quyết định hình phạt là một chế định của luật hình sự, do đó mối quan hệ giữa các nguyên tắc quyết định hình phạt với các nguyên tắc của luật hình sự là mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung. Các nguyên tắc của luật hình sự là các nguyên tắc chung nhất đối với toàn bộ quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự, còn các nguyên tắc quyết định hình phạt là những nguyên tắc riêng, đặc trưng cho chế định quyết định hình phạt. Các loại nguyên tắc trên đều tồn tại một cách khách quan và giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, bổ sung cho nhau trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự vào thực tiễn. Khi áp dụng những quy định của luật hình sự về quyết định hình phạt, phải thấm nhuần những nguyên tắc chung của luật hình sự và những nguyên tắc của việc quyết định hình phạt. Có như vậy thì việc áp dụng các quy phạm của pháp luật hình sự mới chính xác và đạt hiệu quả cao.
Căn cứ vào yêu cầu các nguyên tắc quyết định hình phạt phải là những tư tưởng chủ đạo (được quy định trực tiếp hoặc gián tiếp trong luật) trong quá trình Tòa án áp dụng hình phạt đối với người phạm tội và các nguyên tắc đó phải phù hợp với các nguyên tắc chung của luật hình sự, chúng tôi xác định có ba nguyên tắc quyết định hình phạt chủ yếu sau đây: 1) Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; 2) Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt; 3) Nguyên tắc công bằng xã hội. Các nguyên tắc này tạo thành hệ thống các nguyên tắc quyết định hình phạt mà Tòa án phải tuân thủ khi lựa chọn và xác định loại, mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội. Các nguyên tắc trên vừa có tính độc lập tương đối, vừa có mối liên hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau, góp phần định hướng, chỉ đạo quá trình quyết định hình phạt.
a) Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc quan trọng và cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nói đến pháp chế là nói đến sự triệt để tuân thủ pháp luật của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân. Pháp chế xã hội chủ nghĩa còn là một yếu tố quan trọng của quá trình đổi mới pháp luật ở Việt Nam.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được coi là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt toàn bộ các hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự. Trong các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với nhiều tội phạm, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đóng vai trò quan trọng hàng đầu, vi phạm nguyên tắc pháp chế cũng có nghĩa là vi phạm các nguyên tắc khác ở các mức độ khác nhau. Tư tưởng cơ bản bao trùm của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa khi quyết định hình phạt đối với nhiều tội phạm được thể hiện ở chỗ khi áp dụng hình phạt đối với người bị kết án, Tòa án phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của luật hình sự.
Nội dung của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa khi Tòa án quyết định hình phạt đối với nhiều tội phạm được thể hiện như sau:
Nội dung thứ nhất: khi quyết định hình phạt, Tòa án phải tuân theo trình tự và các điều kiện áp dụng các loại hình phạt cụ thể và chỉ có thể tuyên những hình phạt, với mức phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự.
Hình phạt với tính chất là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được áp dụng đối với người thực hiện tội phạm. Chỉ có Bộ luật hình sự mới quy định loại chế tài này để áp dụng đối với người phạm tội. Đối với trường hợp nhiều tội phạm, mặc dù tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của những hành vi phạm tội do họ thực hiện cao hơn so với trường hợp phạm một tội, nhưng hình phạt được áp dụng đối với họ không thể tùy tiện mà cũng phải được xác định trên cơ sở do luật hình sự quy định. Nếu trong khi quyết định hình phạt đối với nhiều tội phạm, Tòa án căn cứ vào các chế tài không được luật hình sự quy định để áp dụng đối với người thực hiện nhiều tội phạm, thì chẳng những vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa mà việc làm đó còn không đạt được mục đích của hình phạt. Trong Phần chung Bộ luật hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể hệ thống hình phạt chính và hình phạt bổ sung, điều kiện áp dụng hình phạt, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án… Trong Phần các tội phạm của Bộ luật này, cũng đã quy định cụ loại và mức hình phạt có thể áp dụng đối với người thực hiện nhiều tội phạm đó.
Nội dung thứ hai: khi quyết định hình phạt, Tòa án phải tuân thủ các quy định của Bộ luật hình sự về nội dung, phạm vi, điều kiện áp dụng các loại hình phạt, về tổng hợp hình phạt. Khi quy định các loại hình phạt, luật hình sự đã quy định cụ thể nội dung từng loại hình phạt với tính chất, mức độ nghiêm khắc khác nhau, phạm vi áp dụng (đối với những tội phạm nào và với đối tượng nào) cũng như điều kiện áp dụng hình phạt đó. Đối với trường hợp nhiều tội phạm, mặc dù tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội tăng lên đáng kể, nhưng Tòa án vẫn phải triệt để tuân thủ nội dung này. Ví dụ: tuy người chưa thành niên phạm nhiều tội và ở trong trường hợp tái phạm nguy hiểm, nhưng Tòa án vẫn không thể quyết định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình (khoản 5 Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015); hay như trường hợp quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp phạm nhiều tội, thì hình phạt chung cũng không được vượt quá 30 năm, cho dù các hình phạt chính đã tuyên đối với mỗi tội phạm đều là 20 năm tù. Đối với tất cả các quy định của Bộ luật hình sự nói trên, Tòa án phải triệt để tuân thủ khi xác định và lựa chọn loại hình phạt, mức phạt cụ thể cần áp dụng cho người phạm tội.
Nội dung thứ ba là tính hợp lý của việc quyết định hình phạt đối với nhiều tội phạm. Tính hợp lý thể hiện ở chỗ trong số những phương án khác nhau mà luật cho phép, Tòa án phải lựa chọn phương án tối ưu nhất, vừa phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi phạm tội, vừa phục vụ yêu cầu chính trị trong từng giai đoạn, ở từng địa phương. Để thực hiện nội dung này, Tòa án phải áp dụng đúng pháp luật hình sự. áp dụng đúng pháp luật không có nghĩa là chỉ áp dụng đúng lời văn của pháp luật hình sự mà còn phải hiểu đúng tinh thần lời văn của pháp luật. Muốn thế phải xuất phát từ ý thức xã hội chủ nghĩa để phân tích, tìm hiểu nội dung các quy định của Bộ luật hình sự nói chung và về nhiều tội phạm nói riêng. Các quy phạm pháp luật hình sự thường được trình bày dưới hình thức khái quát cao, nếu không tìm hiểu các quy phạm ấy theo quan điểm chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước thì không thể nắm được đầy đủ tinh thần của pháp luật hình sự. Bên cạnh đó, do người thực hiện nhiều tội phạm thường nguy hiểm hơn nhiều so với người thực hiện một tội phạm và bị quần chúng nhân dân căm ghét, cho nên khi quyết định hình phạt đối với họ, Tòa án phải cân nhắc cả tình hình chính trị, xã hội, kinh tế ở địa phương để quyết định hình phạt cho hợp lý.
b) Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt
Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt là nguyên tắc chung của luật hình sự, đồng thời cũng là nguyên tắc của quyết định hình phạt. Yêu cầu của nguyên tắc này là mọi hành vi phạm tội đều bị phát hiện và trừng phạt, không bỏ lọt tội phạm.
Nhiều tội phạm là chế định rất phức tạp và trong thực tế, các trường hợp thực hiện nhiều tội phạm lại rất khác nhau về mặt xã hội cũng như tâm lý. Vì vậy, cá thể hóa hình phạt là nguyên tắc tất yếu của việc quyết định hình phạt đối với nhiều tội phạm và pháp luật hình sự có những quy định bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc đó. Nghiên cứu Bộ luật hình sự năm 2015 cho thấy, các nhà làm luật đã có nhiều điều luật, nhất là các quy định trong chương VII – Quyết định hình phạt – quy định việc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật và phục vụ việc cá thể hóa hình phạt khi quyết định hình phạt đối với nhiều tội phạm.
Do đó, cá thể hóa hình phạt là một trong những nguyên tắc quan trọng của chế định hình phạt và là nguyên tắc đặc thù của quyết định hình phạt đối với nhiều tội phạm. Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc này là: khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự, ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể áp dụng cho người phạm tội sao cho công bằng, hợp lý nhằm bảo đảm mục đích của hình phạt. Có như vậy hình phạt mới đạt được mục đích vừa nhằm trừng trị, vừa nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội.
Để có thể cá thể hóa hình phạt đối với nhiều tội phạm, vấn đề cần được chú ý là phải xem xét nhân thân người phạm tội: tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Tất nhiên, hình phạt đối với nhiều tội phạm luôn luôn là hình phạt đối với các hình vi phạm tội đã thực hiện, chứ không phải nhân thân người phạm tội. Xem xét nhân thân người phạm tội để phục vụ cho việc cá thể hóa hình phạt đối với nhiều tội phạm không phải là xem xét nhân thân nói chung, mà là xem xét những đặc điểm nhất định có ảnh hưởng tới tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Theo luật hình sự Việt Nam, cùng với một số tình tiết khác, các biểu hiện của nhiều tội phạm như tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là những tình tiết về nhân thân có ý nghĩa quan trọng khi quyết định hình phạt đối với nhiều tội phạm.
c) Nguyên tắc công bằng xã hội
Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc công bằng xã hội trong việc quyết định hình phạt đối với nhiều tội phạm thể hiện ở chỗ loại và mức hình phạt do Tòa án tuyên phải tương xứng với các tội đã phạm và nhân thân người phạm tội. Các chủ thể khi thực hiện hành vi nguy hiểm trong những điều kiện như nhau thì phải chịu hình phạt ngang nhau, không có sự phân biệt đối xử về giới tính, tôn giáo, địa vị xã hội…
Nội dung của nguyên tắc công bằng xã hội khi quyết định hình phạt thể hiện:
Thứ nhất, hình phạt đã tuyên phải tương xứng với các tội đã phạm. Nghĩa là các tội đã phạm càng nghiêm trọng và trong những điều kiện giống nhau, thì hình phạt phải càng nghiêm khắc hơn và ngược lại.
Thứ hai, khi quyết định hình phạt đối với nhiều tội phạm, mặc dù có tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm nhưng phải cân nhắc nhân thân người phạm tội và các tình tiết khác có trong vụ án. Sở dĩ phải chú ý đến vấn đề này, vì hình phạt bao giờ cũng được án, đối với người phạm tội cụ thể, mà những con người cụ thể tất yếu có hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm, sinh lý riêng cũng như giữ những địa vị không giống nhau trong xã hội.
Thứ ba, hình phạt được tuyên đối với nhiều tội phạm cần phải phản ánh một cách đúng đắn dư luận xã hội, ý thức pháp luật, đạo đức xã hội, phải có sức thuyết phục, bảo đảm tính công bằng và chính sách hình sự của Nhà nước ta.