Việc xem xét các yếu tố quyết định hình phạt đối với tội dâm ô đối người dưới 16 tuổi nói riêng và các tội phạm khác nói chung sẽ tránh giúp các cơ quan tiến hành tố tụng tránh được oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Mục lục bài viết
- 1 1. Quyết định hình phạt đối với tội dâm ô người dưới 16 tuổi là gì:
- 2 2. Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt đối với tội dâm ô người dưới 16 tuổi:
- 3 3. Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
- 4 4. Các căn cứ quyết định hình phạt:
- 4.1 4.1. Căn cứ vào các quy định của LHS để quyết định hình phạt đối với người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
- 4.2 4.2. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
- 4.3 4.3. Căn cứ nhân thân người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
- 4.4 4.4. Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
- 5 5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của quyết định hình phạt đối với người phạm tội
1. Quyết định hình phạt đối với tội dâm ô người dưới 16 tuổi là gì:
Quyết định hình phạt là một giai đoạn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự vào giải quyết vụ án cụ thể về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Quan niệm về quyết định hình phạt cũng rộng, hẹp khác nhau. Theo nghĩa hẹp thì quyết định hình phạt được hiểu là việc
Quyết định hình phạt theo nghĩa rộng, được nhận thức là quyết định biện pháp xử lý đối với chủ thể chịu TNHS. Theo nghĩa này nội dung của quyết định hình phạt bao gồm quyết định miễn TNHS, miễn hình phạt, quyết định hình phạt chính, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, án treo. Như vậy, nội dung chủ yếu, quan trọng của quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể.
Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản của quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật vào giải quyết vụ án cụ thể về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Tức là một giai đoạn đưa pháp luật hình sự vào đời sống thực tế; nó là bước tiếp theo của giai đoạn định tội, do vậy, giữa hai giai đoạn định tội và quyết định hình phạt có mối quan hệ khăng khít, trong đó định tội là giai đoạn quan trọng có tính tiên quyết cho quyết định hình phạt đúng.
2. Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt đối với tội dâm ô người dưới 16 tuổi:
Quyết định hình phạt có ý nghĩa chính trị – xã hội, đạo đức và pháp lý rất lớn. Việc tuân thủ nghiêm chỉnh LHS trong quyết định hình phạt đối với người thực hiện tội dâm ô đối với trẻ em, là điều kiện cần thiết và quan trọng của việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước trong phòng chống các hành vi phạm tội, bảo vệ quyền con người của người dưới 16 tuổi-nạn nhân của loại tội xâm hại tình dục này. Bởi người dưới 16 tuổi là những người mà sự phát triển về thể chất có sự không tương xứng với quá trình phát triển về nhân cách, năng lực trí tuệ, nhân sinh quan và thế giới quan để hình thành toàn bộ những đặc điểm tâm sinh lý của một người bước vào độ tuổi thành niên. Ở người trong lứa tuổi này đang diễn ra một sự biến đổi sâu sắc về sinh học, có những mâu thuẫn gay gắt trong sự phát triển nhân cách. Hành vi của người phạm tội dâm ô với người dưới 16 tuổi sẽ dẫn đến không chỉ xâm hại nhân phẩm danh dự đến quyền tự do tình dục của các em, mà nhiều trường hợp gây ra những hậu quả nghiêm trong khác về thể chất và tinh thần. Cho nên việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội này có căn cứ, đúng pháp luật, công bằng là tiền đề, điều kiện và là cơ sở pháp lý để đạt được mục đích của hình phạt, để bảo đảm và nâng cao hiệu quả của hình phạt, của trách nhiệm hình sự, nghĩa là mới có khả năng cải tạo, giáo dục người bị kết án trở thành chủ thể có ích cho xã hội, mới có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung. Đồng thời, quyết định hình phạt đúng còn góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng và chống các hành vi phạm tội, bảo vệ hữu hiệu các quyền con người, trong đó có quyền của các em dưới 16 tuổi là đối tượng tác động của các tội phạm tình dục.
Dĩ nhiên, hình phạt có đạt được mục đích, đạt được hiệu quả hay không còn phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: những yếu tố thuộc về xây dựng hệ thống pháp luật, những yếu tố thuộc về áp dụng pháp luật, những yếu tố về chấp hành pháp luật, những yếu tố kinh tế – xã hội liên quan đến hình phạt… nhưng yếu tố quyết định hình phạt đúng giữ vai trò trọng yếu.
Như vậy, từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm quyết định hình phạt với tội dâm ô người dưới 16 tuổi như sau: “ Quyết định hình phạt với tội dâm ô người dưới 16 tuổi là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và định mức hình phạt cụ thể với người phạm tội dâm ô người dưới 16 tuổi nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội đồng thời răn đe và phòng ngừa loại tội phạm này tiếp diễn.”
3. Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
Để hoạt động quyết định hình phạt có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng pháp luật, công minh, công bằng đối với người bị kết án về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, Tòa án phải tuân thủ các nguyên tắc quyết định hình phạt. Đó là những phương hướng, tư tưởng chỉ đạo được thể hiện qua nội dung các điều luật của BLHS và do giải thích mà có, xác định và định hướng hoạt động của Tòa án trong việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Vì vậy, các Tòa án cần phải nhận thức đúng đắn và vận dụng chính xác, thống nhất các nguyên tắc đó khi quyết định hình phạt.
Ở đây cần phải hiểu là hình phạt là chế định có tính chất đặc thù của LHS, nên khi áp dụng, ngoài nguyên tắc chung của ngành LHS còn cần phải tuân thủ các nguyên tắc đặc thù của nó. Giữa nguyên tắc chung của LHS với các nguyên tắc đặc thù của quyết định hình phạt là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Hai loại nguyên tắc này tồn tại khách quan nhưng có mối liên hệ qua lại, chặt chẽ nhưng bổ sung cho nhau. Nội dung của một số nguyên tắc chung LHS có thể được thể hiện ở các nguyên tắc quyết định hình phạt. Nhưng có nguyên tắc lại có tính đặc thù riêng của quyết định hình phạt, ví dụ nguyên tắc cá thể hóa hình phạt.
Những nguyên tắc cần tuân thủ khi quyết định hình phạt, đó là: nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc công bằng, nguyên tắc nhân đạo, và nguyên tắc cá thể hóa hình phạt.
3.1. Nguyên tắc pháp chế:
Nguyên tắc pháp chế thể hiện ở chỗ tất cả những gì là cơ sở của TNHS, của việc áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp cũng như việc áp dụng các hình thức TNHS khác với tư cách là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm đều phải được quy định trong LHS.
Cũng như tội phạm, hình phạt chỉ có thể và phải được quy định trong luật, chỉ có luật mới có thể xác định hình phạt cho mỗi tội phạm. Yêu cầu hình phạt phải được quy định trong LHS là sự thể hiện rõ nét nguyên tắc pháp chế về hình phạt. Trong BLHS, hình phạt được quy định ở cả Phần chung và Phần các tội phạm.
Nguyên tắc pháp chế về hình phạt có tính tuyệt đối, nó được áp dụng đối với tất cả các loại hình phạt và không có ngoại lệ. Nguyên tắc này đòi hỏi chỉ có luật mới quy định hình phạt. Điều đó có nghĩa Tòa án không những không có quyền thiết lập hình phạt mới và cũng không thể áp dụng tương tự về hình phạt mà còn phải hành động trong những giới hạn mà nhà làm luật quy định. Tòa án không có quyền quyết định hình phạt vượt mức tối đa mà khung hình phạt quy định đối với tội phạm mà họ xét xử, nhưng trong những trường hợp nhất định họ có quyền quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
Hệ quả của nguyên tắc pháp chế về hình phạt được thể hiện ở chỗ nếu văn bản pháp luật mới nghiêm khắc hơn so với văn bản pháp luật cũ sẽ không được áp dụng đối với hành vi phạm tội xảy ra trước khi văn bản pháp luật mới có hiệu lực thi hành. Tương tự, trường hợp điều luật mở rộng phạm vi áp dụng của đạo luật bằng quy định mới, thay đổi chế độ tái phạm, tái phạm nguy hiểm, chế độ tổng hợp hoặc không tổng hợp hình phạt hoặc bổ sung hình phạt bổ sung mới hoặc bỏ trường hợp giảm hình phạt, miễn hình phạt, hạn chế phạm vi áp dụng án treo…và các quy định khác làm xấu tình trạng của người phạm tội đều không được áp dụng đối với hành vi phạm tội xảy ra trước khi điều luật đó có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên trong trường hợp liên quan tới văn bản LHS mới nhưng nhẹ hơn, ít nghiêm khắc hơn so với văn bản LHS cũ. Hiệu lực hồi tố của văn bản LHS ít nghiêm khắc hơn được thừa nhận không chỉ ở nước ta mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Nó được chấp nhận là vì lợi ích xã hội và lợi ích của chính cá nhân người phạm tội. Điều này đã được ghi nhận tại khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015.
Nguyên tắc pháp chế về hình phạt còn thể hiện ở chỗ hình phạt chỉ có thể do Tòa án quyết định đối với người phạm tội và việc tuyên hình phạt phải công khai tại phiên tòa và bằng một bản án. Nguyên tắc pháp chế còn thể hiện ở tính chính xác của hình phạt được tuyên, tính lập luận và bắt buộc có lý do trong bản án được tuyên, tính hợp lý của việc quyết định hình phạt. Trước hết là hình phạt quyết định đối với người phạm tội phải cụ thể về loại và mức hình phạt, hai là Tòa án phải làm sáng tỏ các tình tiết trong vụ án trong quá trình xét xử để làm căn cứ cho việc quyết định hình phạt, đồng thời phải chỉ rõ lý do của việc quyết định hình phạt.
Quá trình xét xử và quyết định hình phạt của Tòa án phải tuân thủ nghiêm ngặt các thủ tục được quy định trong LTTHS. Toàn bộ quá trình tố tụng để đi đến phiên tòa xét xử để định tội và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội đều do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước tiến hành.
Như vậy, việc quyết định hình phạt với tội dâm ô cũng cần phải tuân theo nguyên tắc pháp chế vì Tòa án là chủ thể duy nhất có quyền tuyên hình phạt với người phạm tội dựa trên những văn bản luật và căn cứ vào những chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội. Việc tuân thủ nguyên tắc pháp chế với loại tội phạm này góp phần tạo nên trật tự, kỷ cương, đảm bảo cho hoạt động của toàn xã hội và người phạm tội đều bị phát hiện, xử lý đúng người đúng tội, không làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội phạm đồng thời thúc đẩy xã hội phát triển.
3.2. Nguyên tắc công bằng:
Trong lĩnh vực hình sự, nguyên tắc công bằng được thể hiện bằng sự tương xứng giữa tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và TNHS của người phạm tội phải chịu. Sự tương xứng này được thể hiện:) là ở mức độ lập pháp hình sự;ii) là ở mức độ chế tài hình sự quy định trong các điều luật về tội phạm cụ thể. Một chế tài hình sự được coi là công bằng khi nó tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đồng thời nó phải tương xứng trong mối liên hệ đối với chế tài của các tội phạm khác. Chế tài nguy đó cho phép Toà án có thể tính tới các điều kiện phạm tội cụ thể trong thực tiễn; iii) là ở vấn đề quyết định hình phạt. Mức và loại hình phạt áp dụng được coi là công bằng khi nó tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, động cơ và mục đích phạm tội, mức độ lỗi, cũng như tính chất hiểm cho xã hội của nhân thân người phạm tội, việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS, nguyên nhân, điều kiện phạm tội. Điều này có nghĩa là phạm tội trong những điều kiện, hoàn cảnh giống nhau, tội đã phạm càng nghiêm trọng thì hình phạt phải càng nghiêm khắc và ngược lại nếu tội đã phạm ít nghiêm trọng thì hình phạt cũng sẽ nhẹ hơn. Hay nói cách khác, Tòa án làm cho hình phạt trở thành hậu quả thực tế của việc phạm tội, là kết quả thực tế của việc phạm tội, là kết quả tất yếu của hành vi đó.
Nguyên tắc công bằng trong LHS, trong quyết định hình phạt hoàn toàn phù hợp với tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại về sự công bằng của pháp luật được quy định trong các văn bản pháp luật quốc tế, nó đồng thời là sự đòi hỏi bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong xã hội.
Việc quyết định hình phạt với tội dâm ô người dưới 16 tuổi cũng phải dựa trên nguyên tắc công bằng, mặc dù việc áp dụng hình phạt là hậu quả tất yếu xảy ra sau khi hành vi phạm tội hoàn thành nhưng sẽ tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, tội đã phạm càng nghiêm trọng thì hình phạt phải càng nghiêm khắc và ngược lại nếu tội đã phạm ít nghiêm trọng thì hình phạt cũng sẽ nhẹ hơn.
3.3. Nguyên tắc nhân đạo:
Nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi khi quyết định hình phạt Tòa án phải xuất phát từ tư tưởng nhân đạo để áp dụng và tuân thủ triệt để các quy định của LHS về hình phạt cũng như về quyết định hình phạt. Nguyên tắc nhân đạo được thể hiện trước hết là thái độ khoan hồng, là việc đặt mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội lên hàng đầu, là việc cân nhắc tất cả các đặc điểm tốt về nhân thân của người phạm tội, việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội trong phạm vi luật định, là việc xem xét những đặc điểm tâm sinh lý cũng như hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội để có thể quyết định một hình phạt ở mức cần thiết thấp nhất vừa đủ bảo đảm mục đích ngăn ngừa người phạm tội phạm tội mới và mục đích giáo dục người dân, tổ chức tham gia tích cực vào công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Nguyên tắc nhân đạo cũng đóng vai trò tất yếu khi quyết định hình phạt với tội dâm ô người dưới 16 tuổi. Mặc dù hành vi dâm ô người dưới 16 tuổi là phạm tội nhưng khi đưa ra hình phạt vẫn cần cân nhắc về nhân thân, thái độ ăn năn hối cải của người phạm tội để đưa ra một mức án phù hợp, không quá cao. kịch khung nhưng cũng không quá nhẹ và đủ để tạo nên sự răn đe với người đã thực hiện tội phạm này.
3.4. Nguyên tắc cá thể hóa:
Đây là một nguyên tắc quan trọng trong việc quyết định hình phạt. Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ khi quyết định hình phạt Tòa án phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện, nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS để chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong luật sao cho đạt kết quả cao nhất, tạo điều kiện cho việc đạt được các mục đích của hình phạt.
Như vậy, cá thể hóa hình phạt thực chất là kết quả của quá trình quyết định hình phạt cho nên nó phải dựa trên tất cả các yếu tố về hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội.
Trước hết, trong LHS nội dung của nguyên tắc này được thể hiện ở những quy định chung trong Phần chung và Phần các tội phạm ở dạng tổng quát buộc Tòa án phải cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với người thực hiện tội phạm.
Nguyên tắc cá thể hóa trong quyết định hình phạt được thể chế hóa trong HTHP và ở các điều kiện áp dụng hình phạt này hay hình phạt khác. Đối với những hình phạt khác nhau nhà làm luật đã quy định nội dung và điều kiện áp dụng khác nhau là nhằm đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hình phạt. Những nội dung và điều kiện khác nhau đó được quy định không chỉ dựa vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà còn dựa vào các đặc điểm nhân thân người phạm tội. Như vậy, hệ thống hình phạt đa dạng quy định trong LHS tạo cho Tòa án điều kiện để cá thể hóa hình phạt với việc cân nhắc tất cả các khả năng có thể có của việc thực hiện tội phạm trong hiện thực khách quan.
Hiện nay, theo BLHS năm 2015, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt ngày càng được hoàn thiện. Thông qua việc phân hóa tối đa các loại tội phạm, các chế tài xác định tương đối và tăng cường chế tài tùy nghi lựa chọn giữa các hình phạt không phải tù và tù có thời hạn làm cho việc áp dụng pháp luật được thống nhất, bảo đảm tính ổn định của các bản án được tuyên.
Như vậy, việc áp dụng nguyên tắc này khi quyết định hình phạt đối với tội dâm ô người dưới 16 tuổi nhằm làm cho hình phạt được tuyên phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cuả hành vi phạm tội cũng như nhân thân và hoàn cảnh của người thực hiện tội phạm này.
4. Các căn cứ quyết định hình phạt:
Khái niệm căn cứ được hiểu là cái làm chỗ dựa, làm cơ sở cho lập luận hoặc hành động, còn căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi, yêu cầu cụ thể hóa các nguyên tắc quyết định hình phạt do BLHS quy định mà Tòa án bắt buộc phải tuân thủ để quyết định loại và mức hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) đối với người phạm tội nhằm đạt được các mục đích của hình phạt.
Việc quy định các căn cứ quyết định hình phạt đối với người phạm tội trong LHS có ý nghĩa quan trọng, nó là cơ sở pháp lý để dựa vào đó Tòa án có thể quyết định hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khắc phục, hạn chế tình trạng tùy tiện, thiếu thống nhất trong quyết định hình phạt. Nếu không dựa vào các căn cứ do luật quy định khi quyết định hình phạt, hình phạt áp dụng sẽ không đặt được mục đích, không bảo đảm cho bản án có tính hợp pháp, có căn cứ pháp lý.
Để có thể áp dụng chính xác các căn cứ khi quyết định hình phạt, đòi hỏi phải nhận thức đúng nội dung, bản chất, ý nghĩa pháp lý của từng căn cứ, cũng như mối liên hệ giữa các căn cứ này với nhau. Các căn cứ quyết định hình phạt vừa có tính độc lập tương đối, lại vừa có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung cho nhau tạo thành một thể thống nhất, đó là cơ sở pháp lý mà Tòa án phải tuân thủ khi quyết định hình phạt.
Các căn cứ mà Tòa án dựa vào đó để quyết định hình phạt đối với người phạm tội có thể là các quy định của LHS, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, mức độ lỗi, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS, nguyên nhân, điều kiện phạm tội, v.v.Tại chương 10 BLHS hiện hành về áp dụng hình phạt đã quy định cơ sở quyết định hình phạt như: quy định của BLHS, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và nhân thân người phạm tội, trong đó bao gồm những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt cũng như tác động của hình phạt đã tuyên đối với việc cải tạo người phạm tội và đối với điều kiện sống của gia đình người phạm tội sẽ được tính đến khi quyết định hình phạt và BLHS còn quy định các căn cứ riêng khi quyết định hình phạt với người phạm tội (Điều 63.1 đến Điều 72 BLHS).
4.1. Căn cứ vào các quy định của LHS để quyết định hình phạt đối với người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Nhìn chung khi quyết định hình phạt trước hết Tòa án cần phải căn cứ vào các quy định của LHS để quyết định hình phạt. Đây là một căn cứ có tính bao trùm, căn cứ này bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc pháp chế trong hoạt động xét xử của Tòa án. Khi quyết định hình phạt thì các quy định của LHS bao giờ cũng là tiêu chuẩn pháp lý cao nhất để đảm bảo cho Tòa án quyết định được một hình phạt đúng, tạo khả năng lớn nhất để đạt được mục đích của hình phạt.
Các quy định của LHS mà Tòa án cần phải dựa vào đó để quyết định hình phạt là các quy định thuộc Phần chung của LHS, trong đó, những quy định của Phần chung liên quan trực tiếp đến việc quyết định hình phạt là những quy định mà Tòa án cần căn cứ trước hết khi quyết định hình phạt. Ngoài căn cứ vào các quy định của Phần chung BLHS, Tòa án còn phải căn cứ vào các quy định trong Phần các tội phạm LHS về loại và khung hình phạt của điều luật quy định tội dâm ô đối với trẻ em.
4.2. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là đặc tính về chất của tội phạm là thuộc tính khách quan của loại tội phạm này được xác định bởi toàn bộ các dấu hiệu CTTP, trong đó, trước hết là nhân phẩm, danh dự, là quyền tự do tình dục của người dưới 16 tuổi bị tội phạm xâm hại. Mức độ nguy hiểm cho xã hội là đặc tính về lượng của tội phạm, được xác định bởi tổng thể các dấu hiệu CTTP.
Mặc dù, nhà làm luật khi xây dựng các khung hình phạt đối với tội dâm ô đối với trẻ em, đã dựa chủ yếu vào tính tội phạm này, nhưng khi quyết định hình phạt Tòa án phải cân nhắc cả tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội này xảy ra trong thực tiễn.
Tòa án phải nêu rõ trong bản án những tình tiết cụ thể chứng minh tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cụ thể mà Tòa án căn cứ vào đó và cùng với các tình tiết khác để chọn loại và mức hình phạt cụ thể đối với bị cáo. Chỉ khi bảo đảm được sự cân nhắc tổng thể các tình tiết đó và với việc dựa vào các căn cứ khác (nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và các tình tiết tăng nặng), Tòa án mới có đầy đủ căn cứ để quyết định được loại và mức hình phạt công bằng và đúng pháp luật.
4.3. Căn cứ nhân thân người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
“Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm, dấu hiệu, các đặc tính thể hiện bản chất xã hội của con người khi vi phạm pháp luật hình sự, mà trong sự kết hợp với các điều kiện bên ngoài đã ảnh hưởng đến việc thực hiện hành vi phạm tội của người đó”.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, nhân thân người phạm tội được nghiên cứu với tính chất là một căn cứ khi quyết định hình phạt. Đây cũng là căn cứ thể hiện nguyên tắc cá thể hoá hình phạt trong LHS. Căn cứ này đòi hỏi Toà án khi quyết định hình phạt phải xác định loại và mức hình phạt cụ thể không chỉ tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà còn phù hợp với những đặc điểm về nhân thân của người phạm tội để bảo đảm hình phạt đã tuyên đạt được mục đích trừng trị và giáo dục cải tạo người phạm tội.
Những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội có rất nhiều, nhưng không phải tất cả những đặc điểm đó đều được cân nhắc, đánh giá khi quyết định hình phạt. Theo chúng tôi, tiêu chuẩn để xác định đặc điểm nào thuộc về nhân thân người phạm tội cần được xem xét, cân nhắc khi quyết định hình phạt phải dựa vào hai tiêu chí sau đây: một là, những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội; hai là, những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội có liên quan đến việc đạt được mục đích của hình phạt. Đó là những đặc điểm nhân thân có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội dam ô đối với người dưới 16 tuổi; phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo người phạm tội; phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội mà Tòa án phải xem xét khi quyết định hình phạt…
Những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi có thể được chỉ rõ trong LHS hoặc không được chỉ rõ trong luật nhưng được LHS cho phép Tòa án cân nhắc khi áp dụng khi quyết định hình phạt. Nhân thân người phạm tội là một nội dung phản ánh tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đồng thời là một căn cứ độc lập phải xem xét khi quyết định hình phạt.
4.4. Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Những tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng TNHS là những tình tiết làm cho những trường hợp phạm tội cụ thể của một tội phạm khác nhau về mức độ nguy hiểm cho xã hội. Những tình tiết này có ý nghĩa về mặt quyết định hình phạt, giảm hoặc tăng mức hình phạt trong một khung hình phạt nhất định, chứ không có tính chất bắt buộc như tình tiết định tội hoặc tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ chuyển khung hình phạt (tình tiết định khung hình phạt). Vì vậy, khi xét xử Tòa án phải xác định tội danh và khung hình phạt trước, sau đó mới cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng TNHS.
Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS không được quy định trong các cấu thành tội phạm cụ thể mà được quy định tại Phần chung của LHS. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS, đây chính là quy định có tính chất hướng dẫn, bắt buộc để cụ thể hóa một phần khi xem xét, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội. Bởi vì, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS và nhân thân người phạm tội cũng là một trong những cơ sở để đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, trong số các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS có những tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội. Do vậy, nếu xem xét, cân nhắc một cách tổng thể các căn cứ quyết định hình phạt thì căn cứ này đã thuộc về một phần nội dung của căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội.Trên cơ sở đó, Tòa án đánh giá, xác định giá trị pháp lý của hai loại tình tiết đối lập nhau trong việc làm tăng hay giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó trong phạm vi một khung hình phạt cụ thể đã được xác định. Từ đó đưa ra quyết định hình phạt của vụ án là cần tăng nặng, cần giảm nhẹ, hay chỉ cần xử ở mức trung bình của khung hình phạt. Nếu tình tiết tăng nặng có mức độ ảnh hưởng lớn hơn tình tiết giảm nhẹ thì là trường hợp cần tăng nặng. Hoặc ngược lại, nếu tình tiết giảm nhẹ có ảnh hưởng lớn hơn tình tiết tăng nặng thì là trường hợp cần giảm nhẹ. Nếu cả hai loại tình tiết đều có mức độ ảnh hưởng tương đương nhau thì là trường hợp bình thường. Điều quan trọng trong trường hợp này là Tòa án phải đưa ra được một nhận định là cần phải tuyên cho bị cáo một hình phạt ở mức tăng nặng, ở mức giảm nhẹ hay ở mức trung bình của khung hình phạt, sao cho hình phạt đã tuyên tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trong trường hợp này khi quyết định hình phạt, Tòa án phải vận dụng các nguyên tắc quyết định hình phạt, trong đó đáng chú ý là nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa để vận dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo.
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của quyết định hình phạt đối với người phạm tội
Định tội danh và quyết định hình phạt đối với người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là các giai đoạn áp dụng pháp luật vào giải quyết vụ án hình sự liên quan đến tội phạm này. Trong thực tế hoạt động áp dụng pháp luật này chịu sự quy định, ảnh hưởng của nhiều yếu tố thuộc cả cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng pháp lý, trong đó có những yếu tố chủ yếu sau:
Thứ nhất, hoạt động xây dựng hệ thống pháp luật hình sự
Hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt có liên quan rất chặt chẽ với hoạt động xây dựng pháp luật hình sự. Định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi thực chất là quá trình lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự vào giải quyết vụ án cụ thể, do đó yếu tố đầu tiên và là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến chất lượng của các hoạt động này đó là hệ thống pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và các quy phạm pháp luật khác có liên quan đến tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Để thực hiện và áp dụng pháp luật có hiệu quả trước hết phải có pháp luật hình sự tốt, hoàn chỉnh, đồng bộ, sát thực tế, phù hợp với các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế-xã hội, phù hợp với những điều kiện kinh tế, chính trị,văn hóa xã hội, tâm lí, tổ chức … cụ thể: Ngoài quy định tại Điều 146 BLHS hiện hành, các quy định tại Phần chung BLHS, đặc biệt là các quy định liên quan đến hình phạt và quyết định hình phạt cũng như các quy định về các tội phạm khác về tình dục có liên quan cũng cần được hoàn thiện, nhất là phạm vi tội phạm hóa các tội phạm tình dục, trong đó có tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Quy định tội phạm và hình phạt cần được nhìn nhận dưới góc độ bảo vệ quyền con người của không chỉ nạn nhân mà cả chủ thể thực hiện. Cần có sự thống nhất đồng bộ hóa việc quy định tội phạm tình dục nói chung và tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi nói riêng với các lĩnh vực khoa học khác; cần chủ trọng đến nguyên tắc phân hóa chính xác TNHS. Ngoài ra hoàn thiện LHS phải chú đến sự tương thích với các chuẩn mực quốc tế liên quan đến bảo vệ nhân phẩm, danh dự, quyền tự do tình dục, bảo vệ sức khỏe của trẻ em. Bên cạnh đó vấn đề bảo đảm kỹ thuật lập pháp cũng cần phải quan tâm để thống nhất trong nhận thức và áp dụng LHS liên quan đến định tội dnah và quyết định hình phạt đối với người phạm tội về tình dục nói chung và tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi nói chung.
Ngoài việc hoàn thiện PLHS liên quan đến định tội và quyết định hình phạt đối với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi cũng cần rà soát hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự đầy đủ cũng là yếu tố đảm bảo cho quy trình tố tụng được diễn ra hợp pháp, bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của những chủ thể tham gia tố tụng.
Thứ hai, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của người quyết định hình phạt
Chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân luôn là yếu tố quyết định cho việc giải quyết vụ án hình sự có hiệu quả. Định tội danh và quyết định hình phạt về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là hoạt động của chủ thể có thẩm quyền trong việc xác định hành vi người phạm tội thực hiện có thỏa mãn quy định tại Điều 146 BLHS hiện hành hay không, nếu thỏa mãn thì thuộc điểm, khoản nào của điều luật và tương ứng sẽ phải chịu trách nhiệm theo khung hình phạt tại điểm, khoản nào, căn cứ quyết định hình nào nào được áp dụng. Vì vậy, để đảm bảo định tội danh và quyết định hình phạt một cách đúng đắn đòi hỏi người có thẩm quyền định tội danh và quyết định hình phạt phải có nên văn hóa pháp lý vững chắc, kiến thức pháp luật, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm nghề nghiệp phong phú, theo đó ngoài việc nắm vững các quy định của pháp luật như các yếu tố cấu thành tội phạm, các giai đoạn thực hiện tội phạm, các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự… còn phải xem xét, đánh giá các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, vô tư, tránh suy diễn chủ quan, quy kết không có căn cứ.
Trình độ, năng lực chuyên môn của họ trước hết vào chất lượng và chuyên môn đào tạo. Do vậy, theo quy định chung, việc tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng phải căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh và vị trí việc làm là giải pháp quan trọng hàng đầu không thể thay thế. Theo đó, chuyên môn đào tạo được xem là tiêu chuẩn chính chứ không phải yêu cầu về bằng cấp cao.
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thụ lý giải quyết vụ án hình sự về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi phải có kỹ năng, nghiệp vụ xét xử và nó phải gắn với chuyên môn đào tạo và kinh nghiệm làm việc. Xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động xét xử, các kỹ năng cần thiết trong hoạt động này được cụ thể hóa thành quy trình, quy phạm đòi hỏi phải được thực hiện một cách thống nhất. Ngoài việc tinh thông nghiệp vụ, nắm vững trình tự, thủ tục giải quyết án, tính chuyên nghiệp của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (hội đồng xét xử) còn thể hiện thông qua nhiều khía cạnh khác, kể cả sử dụng các công cụ hỗ trợ (như ngoại ngữ, ứng dụng công nghệ thông tin…) cũng như khả năng thích nghi, giao tiếp, …
Người có thẩm quyền định tội danh và quyết định hình phạt (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân) không chỉ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ mà còn có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, ý thức chấp hành kỷ luật, kỷ cương và đề cao văn hóa công vụ, nhất là văn hóa giao tiếp, ứng xử.
Thứ ba, giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Giải thích PLHS là hoạt động tất yếu, đóng vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện pháp luật, giúp cho PLHS được thực hiện một cách đúng đắn và thống nhất. Đây là một hoạt động giúp đưa pháp luật đi vào cuộc sống. Để định tội danh và quyết định hình phạt đối với người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, thì trước hết việc nhận thức các quy định của PLHS liên quan đến tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi và các quy định liên quan đến quyết định hình phạt đối với tội này sao cho đúng và thống nhất cần phải được đặt ra, muốn làm được điều đó thì cần phải thực hiện giải thích pháp luật.
Hoạt động giải thích PLHS là hoạt động tất yếu để hoàn thiện hoạt động lập pháp, đưa những khái niệm tư duy trừu tượng đi vào thực tiễn. Để đảm bảo cho kết quả giải thích pháp luật hợp pháp, mang tính khoa học và khách quan thì các chủ thể giải thích và hoạt động giải thích cần phải được quy định và tuân theo một phương thức, quy trình nhất định. Đó là những phương pháp và cách thức tiếp cận các quy phạm pháp luật theo một trình tự chặt chẽ, từ việc xác định nhu cầu, nghiên cứu, phân tích, giải thích và công bố kết quả.
Hoạt động giải thích pháp luật nói chung và PLHS nói riêng ở nước ta do Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đảm nhiệm, tuy vậy, hoạt động trên chưa thực sự có hiệu quả và đáp ứng được những yêu cầu giải thích pháp luật của xã hội. Để giải quyết kịp thời nhu cầu giải thích pháp luật mà thực tiễn đặt ra, TANDTC buộc phải thực hiện công tác hướng dẫn đường lối xét xử thống nhất, hướng dẫn áp dụng pháp luật thống nhất nhiều hơn mà có những khi lấn sang hoạt động giải thích pháp luật thuộc thẩm quyền của UBTVQH. Gần đây, TANDTC được trao thẩm quyền ban hành án lệ (theo Luật tổ chức
Về tội dâm ô đối với trẻ em (người dưới 16 tuổi) đã được TANDTC hướng dẫn bằng các văn bản hướng dẫn như: Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và các tội phạm khác về mặt tình dục số 329- HS2 ngày 11/05/1967 (Bản tổng kết 329-HS2); Thông tư liên tịch số 01/1998 ngày 02/01/1998 của TANDTC-VKSNDTC-BNV hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS cũng đã hướng dẫn về hành vi dâm ô; Nghị quyết 06/2019 hướng dẫn dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi. Nghị quyết 06/2019 được ban hành thay thế các văn bản hướng dẫn trước đó của TANDTC đã đưa ra định nghĩa về dâm ô và liệt kê các hành vi dâm ô cụ thể tại khoản 3 Điều 5. Tuy nhiên Nghị quyết 06/2019 vẫn còn có những hướng dẫn không rõ ràng, trùng lắp, chưa chính xác (luận văn sẽ trình bày cụ thể ở chương 3). Vì vậy để áp dụng đúng đắn và có hiệu qua các quy định của BLHS liên quan đến định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi các cơ quan có thẩm quyền, bên cạnh sửa đổi, hoàn thiện BLHS còn cần phải giải thích, hướng dẫn kịp thời, đúng đảm bảo sự thống nhất trong nhận thực và áp dụng PLHS của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.