Quyết định 511/2006/KDTM-ST giải quyết tranh chấp giữa các thành viên công ty về chuyển giao tài liệu, sổ sách, cơ sở vật chất và con dấu của công ty
Hội đồng xét xử cho rằng đã có đủ căn cứ để xác định Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006 đã có mặt48 đại biểu là cổ đông hoặc đại diện cổ đông sở hữu 157.938 cổ phần, đạt tỷ 99,81% số cổ phần có quyền biểu quyết là 158.238 cổ phần;
Căn cứ vào các khoản 1, 4 và 5 Điều 22 của Điều lệ công ty cũng như quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 76 và khoản 1, khoản 2 Điều 77
– Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006 đã đủ điều kiện để tiến hành (có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 51% số cổ phần có quyền biểu quyết).
– Quyết định của Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006 có giá trị thực hiện (được số cổ đông có mặt tại đại hội biểu quyết hoặc bỏ phiếu kín tỷ lệ trên 51%).
BẢN ÁN 511/2006/KDTM-ST NGÀY 12/10/2006 VỀ VIỆC TRANH CHẤP GIỮA CÁC THÀNH VIÊN CÔNG TY
Trong các ngày 09 và 12 tháng 10 năm 2006, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 352/2006/TLST-KDTM ngày 08 tháng 6 năm 2006 về tranh chấp giữa các thành viên Công ty cổ phần SX DV TM Đay Sài gòn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1431/2006/QĐST-KDTM ngày 28 tháng 8 năm 2006 giữa các đương sự:
Nguyên đơn : Ông NGUYỄN VĂN KHẢM
Địa chỉ : 115/84 Lê Văn Sỹ, Phường 13, Q. Phú Nhuận, TPHCM
(Có mặt)
Bị đơn : Ông TRẦN HẢI ÂU
Địa chỉ : 198 Bà Hom, Phường 13, Quận 6, TPHCM
(Có mặt ngày 09/10/2006; vắng mặt khi tuyên án ngày 12/10/2006)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :
49 CỔ ĐÔNG CÔNG TY CỔ PHẦN SX DV TM ĐAY SÀI GÒN
(Theo danh sách cổ đông đính kèm)
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn : Luật sư Nguyễn Văn Trung và Luật sư Nguyễn Văn Hòa thuộc Đoàn luật sư TPHCM
NHẬN THẤY
– Nguyên đơn trình bày :
Ngày 15/5/2006, Công ty cổ phần Sản xuất Dịch vụ Thương mại Đay Sài gòn đã tổ chức Đại hội đồng cổ đông bất thường bãi miễn Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát nhiệm kỳ I đồng thời bầu Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát nhiệm kỳ II (2006 – 2011) với tổng số cổ đông có mặt là 48 đại biểu đại diện cho 157.938 cổ phần, chiếm tỷ lệ 99,81%.
Sau đó, vào ngày 16/5/2006, Hội đồng quản trị nhiệm kỳ mới đã nhất trí bầu ông Nguyễn Văn Khảm làm Chủ tịch Hội đồng quản trị và là người đại diện theo pháp luật của công ty.
Tuy nhiên, Hội đồng quản trị cũ đã bị bãi miễn không chịu bàn giao tài liệu, sổ sách và con dấu của công ty cho Hội đồng quản trị mới.
Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Trần Hải Aâu và Ban lãnh đạo đã bị miễn nhiệm phải bàn giao ngay công việc, tài liệu, sổ sách, cơ sở vật chất và con dấu của công ty cho Hội đồng quản trị mới để công ty nhanh chóng ổn định và đi vào sản xuất kinh doanh.
– Bị đơn trình bày :
Yêu cầu Tòa án hủy bỏ các quyết định của Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006 vì đại hội được tiến hành không đúng trình tự đã ghi trong chương trình và quy chế tổ chức đại hội, vi phạm điều lệ công ty và
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày :
Một số cổ đông thống nhất với yêu cầu của nguyên đơn và một số cổ đông thống nhất với yêu cầu của bị đơn.
Tòa án đã triệu tập hòa giải nhưng các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án vì có một số cổ đông đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt (không tirệu tập hòa giải) đồng thời các cổ đông có mặt cũng không thống nhất ý kiến về việc giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa hôm nay :
– Nguyên đơn : Yêu cầu ông Trần Hải Aâu và các thành viên Hội đồng quản trị nhiệm kỳ I đã bị miễn nhiệm phải bàn giao ngay trách nhiệm tài sản, tài liệu, sổ sách và con dấu của công ty cho Hội đồng quản trị mới để công ty nhanh chóng ổn định và đi vào sản xuất kinh doanh.
– Bị đơn : Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đồng thời yêu cầu Tòa án hủy bỏ tất cả các quyết định của Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006 vì đại hội được tiến hành không đúng trình tự đã ghi trong chương trình và quy chế tổ chức đại hội, vi phạm Điều lệ công ty và Luật doanh nghiệp.
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan : Một số cổ đông thống nhất với yêu cầu của nguyên đơn và một số cổ đông thống nhất với yêu cầu của bị đơn.
– Ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị đơn:
+ Việc thụ lý vụ án của Tòa án nhân dân Quận 1 là sai. Việc Tòa án nhân dân thành phố nhập vụ án, biến nguyên đơn thành bị đơn cũng không đúng pháp luật.
+ Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ
+ Điều lệ Công ty Đay Sài gòn là một văn bản có hiệu lực pháp luật, các cổ đông trong công ty phải tuân theo.
+ Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006 đã vi phạm khoản 3 Điều 71 Luật doanh nghiệp năm 1999 về thời gian triệu tập đại hội.
+ Thành phần Ban tổ chức đại hội có người ngoài tham gia là không hợp pháp.
+ Đại hội đã vi phạm khoản 1 Điều 19 của Điều lệ công ty về thành phần cổ đông tham dự. Đề nghị Hội đồng xét xử xem lại trong số 26 cổ đông còn lại tiếp tục đại hội có quyền dự đại hội không (Theo kết quả kiểm tra của phía bị đơn thì có 8 cổ đông không có quyền tham dự vì sở hữu vốn cổ phần dưới 1% vốn điều lệ).
+ Do Đại hội có thiếu sót (không thực hiện mục A8), không thể khắc phục tại đại hội nên việc chủ tọa cho dừng đại hội là phù hợp với quy chế của đại hội.
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bị đơn, hủy bỏ tất cả các quyết định của Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định :
1. Về thẩm quyền giải quyết vụ án :
Đây là tranh chấp về kinh doanh, thương mại (tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến hoạt động của công ty) bị đơn cư trú tại TPHCM. Vì vậy, căn cứ vào Điều 79 Luật doanh nghiệp năm 1999, Điều 107
2. Về thời hiệu khởi kiện :
Ngày 15/5/2006, Công ty cổ phần Sản xuất Dịch vụ Thương mại Đay Sài gòn tổ chức Đại hội đồng cổ đông bất thường thông qua quyết định bãi miễn Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát nhiệm kỳ I và bầu Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát nhiệm kỳ II. Ngày 18/5/2006, Tòa án nhận đơn khởi kiện của ông Nguyễn Văn Khảm và ngày 24/5/2006 nhận đơn khởi kiện của ông Trần Hải Aâu.
Căn cứ vào Điều 79 Luật doanh nghiệp năm 1999 (có hiệu lực tại thời điểm phát sinh tranh chấp) và khoản 1, điểm a khoản 3 Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn và bị đơn đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án trong thời hạn quy định (90 ngày kể từ ngày thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông), do đó, cần được chấp nhận thụ lý để giải quyết.
3. Về việc xác định tư cách của người ký đơn khởi kiện và xác định nguyên đơn, bị đơn trong vụ án:
Khi ký đơn khởi kiện nộp cho Tòa án, cả ông Nguyễn Văn Khảm và ông Trần Hải Aâu đều nhân danh Công ty cổ phần Đay Sài gòn (với tư cách người đại diện theo pháp luật của công ty) đưa ra yêu cầu giải quyết đối với phía bên kia.
Tòa án nhân dân Quận 1 đã nhận đơn khởi kiện của ông Nguyễn Văn Khảm vào ngày 18/5/2006 và đã thụ lý vụ án ngay trong ngày 18/5/2006 với tư cách của các bên do người ký đơn khởi kiện tự xác định như trên (nguyên đơn là Công ty cổ phần Đay Sài gòn do ông Khảm đại diện và bị đơn là ông Trần Hải Aâu), đồng thời xác định quan hệ pháp luật có tranh chấp là “quyền sở hữu tài sản”.
Tòa án nhân dân TPHCM đã nhận đơn khởi kiện của ông Trần Hải Aâu vào ngày 24/5/2006 và đã thụ lý vụ án vào ngày 08/6/2006 cũng với tư cách của các bên do người ký đơn khởi kiện tự xác định như trên (nguyên đơn là Công ty cổ phần Đay Sài gòn do ông Âu đại diện và bị đơn là ông Nguyễn Văn Khảm) nhưng xác định quan hệ pháp luật có tranh chấp là “tranh chấp giữa các thành viên công ty” (quan hệ giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến hoạt động của công ty) theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự.
Sau khi thụ lý vụ án do ông Nguyễn Văn Khảm ký đơn khởi kiện được Tòa án nhân dân Quận 1 chuyển lên để giải quyết theo thẩm quyền, xét thấy.cần nhập hai vụ án nói trên thành một vụ án để giải quyết do có cùng quan hệ pháp luật có tranh chấp là tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự (việc Tòa án nhân dân Quận 1xác định quan hệ pháp luật có tranh chấp là quan hệ về quyền sở hữu tài sản là không đúng), Tòa án nhân dân TPHCM đã có quyết định số 298/2006/QĐ-NVA ngày 20/6/2006 nhập 2 vụ án nói trên thành một vụ án để giải quyết.
Đồng thời, xét thấy các bên (ông Nguyễn Văn Khảm và ông Trần Hải Aâu) đang tranh chấp về quyền quản lý và nhân danh công ty (theo quy định tại khoản 1 Điều 80 Luật doanh nghiệp năm 1999), để bảo đảm cho việc xét xử được khách quan và đúng với bản chất của quan hệ tranh chấp giữa các bên là tranh chấp giữa các cổ đông trong công ty (không phải tranh chấp giữa công ty với cổ đông), Tòa án nhân dân TPHCM đã xác định lại cho chính xác tư cách của người ký đơn khởi kiện là tư cách cá nhân (cổ đông) và xác định nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Khảm (do khởi kiện trước), bị đơn là ông Trần Hải Aâu (do khởi kiện sau); không chấp nhận tư cách đại diện theo pháp luật cho công ty như 2 bên đã tự xác định trong đơn khởi kiện.
4. Về việc xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Tại phiên tòa hôm nay, bà Nguyễn Thanh Xuân là cổ đông và bà Đặng Kim Lan là một trong 3 đại diện được ủy quyền của cổ đông LIKSIN vắng mặt dù đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 3. Ngoài ra, có 5 cổ đông, bao gồm: các bà Hà Thị Thanh Thủy; Huỳnh Thị Bảy; Lê Thị Hồng Lan; Huỳnh Thị Tâm và Bùi Thị Diễm Trinh vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Riêng trường hợp cổ đông Nguyễn Đình Lê có mặt tại phiên tòa vào buổi sáng và vắng mặt vào buổi chiều ngày 09/10/2006 nhưng cũng đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 3 Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 201 và Điều 202 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nói trên.
5. Về nội dung tranh chấp :
a) Xét yêu cầu của nguyên đơn đòi ông Trần Hải Âu và các thành viên Hội đồng quản trị nhiệm kỳ I đã bị miễn nhiệm phải bàn giao ngay trách nhiệm, tài sản, tài liệu, sổ sách và con dấu của công ty cho Hội đồng quản trị nhiệm kỳ II mới được bầu tại Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006:
Căn cứ vào các chứng cứ do các bên đương sự cung cấp đã được thẩm tra tại phiên tòa, bao gồm:
– Biên bản Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006 do ông Bùi Văn Hoàng Thêm làm chủ tọa và các thư ký Nguyễn Thị Ngọc Giàu, Đặng Thị Mỹ Hạnh lập;
– Biên bản Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006 do ông Nguyễn Đình Hạnh làm chủ tọa và các thư ký Nguyễn Thị Ngọc Liên, Nguyễn Huỳnh Diễm Thúy, Đặng Thị Mỹ Hạnh lập;
– Chương trình Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006;
– Danh sách đại biểu dự Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006;
– Biên bản về việc bãi nhiệm HĐQT và Ban kiểm soát nhiệm kỳ I;
– Biên bản kiểm phiếu bầu HĐQT và Ban kiểm soát nhiệm kỳ II;
Cùng với sự xác nhận của 26 cổ đông còn lại (đại diện cho 51,30% số cổ phần biểu quyết của công ty) sau khi xảy ra sự cố một số cổ đông rời khỏi đại hội (vào khoảng 20 giờ 45 phút ngày 15/5/2006); sự xác nhận tại phiên tòa của ông Bùi Văn Hoàng Thêm, chủ tọa đại hội, các thành viên trong Ban bầu cử (gồm các ông Đặng Trần Cường; Nguyễn Văn Sơn; Nguyễn Văn Tiến; Hồ Thanh Võ) và của bị đơn là ông Trần Hải Âu, đã có đủ căn cứ để xác định:
– Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006 đã có mặt 48 đại biểu là cổ đông hoặc đại diện cổ đông sở hữu 157.938 cổ phần, đạt tỷ 99,81% số cổ phần có quyền biểu quyết là 158.238 cổ phần (160.000 cổ phần – 1.762 cổ phần công ty đã mua lại) (vì công ty chỉ có một loại cổ phần duy nhất là cổ phần phổ thông).
– Đại hội đã được tiến hành đến giai đoạn kiểm phiếu bầu HĐQT và Ban kiểm soát nhiệm kỳ II, tức là đã thực hiện xong việc biểu quyết, thông qua quyết định bãi nhiệm HĐQT và Ban kiểm soát nhiệm kỳ I; đã thực hiện xong việc bỏ phiếu bầu HĐQT và Ban kiểm soát nhiệm kỳ II và đang tiến hành kiểm phiếu đối với số phiếu bầu này.
– Kết quả kiểm phiếu bầu HĐQT và Ban kiểm soát nhiệm kỳ II như sau:
+ Các ông Nguyễn Quốc Định; Trần Thanh Huy; Nguyễn Văn Khảm; Thái Thành Nam và bà Nguyễn Thị Thu Lan đều được bầu vào HĐQT với tỷ lệ 51,30% số cổ phần có quyền biểu quyết của các cổ đông có mặt tại đại hội. Các ứng cử viên còn lại đều được bầu với tỷ lệ dưới 49%.
+ Các ông Nguyễn Viết Nhuận; Phạm Minh Trí và bà Nguyễn Thị Ngọc Liên đều được bầu vào Ban kiểm soát với tỷ lệ 51,30%. Các ứng cử viên còn lại đều được bầu với tỷ lệ dưới 49%.
Mặc dù ông Trần Hải Âu và các cổ đông rời khỏi đại hội trước khi công bố kết quả kiểm phiếu không xác nhận kết quả này nhưng 26 cổ đông sở hữu 51,30% số cổ phần có quyền biểu quyết tiếp tục tiến hành đại hội đã xác nhận bằng văn bản và xác nhận tại phiên tòa rằng họ đã bỏ phiếu bầu cho các cổ đông có tên nói trên, nếu cộng tất cả số cổ phần mà họ sở hữu thì đúng với kết quả ghi trong các biên bản kiểm phiếu.
Từ các sự kiện đã được xác định nói trên, căn cứ vào các khoản 1, 4 và 5 Điều 22 của Điều lệ công ty cũng như quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 76 và khoản 1, khoản 2 Điều 77 Luật doanh nghiệp năm 1999 (có hiệu lực thi hành tại thời điểm tiến hành đại hội), có cơ sở để khẳng định:
– Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006 đã đủ điều kiện để tiến hành (có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 51% số cổ phần có quyền biểu quyết).
– Quyết định của Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006 có giá trị thực hiện (được số cổ đông có mặt tại đại hội biểu quyết hoặc bỏ phiếu kín tỷ lệ trên 51%).
Căn cứ vào các điều 6, 26, 35 Điều lệ công ty cũng như các điều 70, 80, 88 Luật doanh nghiệp năm 1999; các điều 96, 108, 109, 121
b) Xét yêu cầu phản tố của bị đơn đòi hủy bỏ tất cả các quyết định của Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006:
Như trên đã phân tích, do các quyết định của Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006 là phù hợp với Điều lệ công ty và hợp pháp nên yêu cầu này của bị đơn không có căn cứ để được chấp nhận.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Về các lý do cụ thể mà phía bị đơn đưa ra để yêu cầu hủy bỏ tất cả các quyết định của Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
– Về lý do thứ nhất (vi phạm thời hạn triệu tập đại hội):
Chính vì HĐQT không triệu tập Đại hội đồng cổ đông theo yêu cầu trong thời hạn quy định 30 ngày nên theo quy định tại khoản 3 Điều 18 của Điều lệ công ty và khoản 3 Điều 71 Luật doanh nghiệp năm 1999, Ban kiểm soát đã thay thế HĐQT triệu tập đại hội vào ngày 15/5/2006 (luật cũng như Điều lệ công ty không quy định thời hạn cho Ban kiểm soát triệu tập đại hội). Do đó, không có căn cứ pháp luật để cho rằng công ty đã vi phạm về thời hạn triệu tập đại hội.
– Về lý do thứ hai (thành phần Ban tổ chức có ông Nguyễn Hồng Quang là người ngoài công ty tham gia):
Ban tổ chức chỉ là người giúp việc cho Ban kiểm soát trong việc chuẩn bị và tổ chức đại hội, pháp luật cũng như Điều lệ công ty không có quy định về thành phần Ban tổ chức. Do đó, không có căn cứ để yêu cầu hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông vì lý do này.
– Về lý do thứ ba (thành phần cổ đông dự đại hội không đúng theo Điều lệ là phải sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên):
Bị đơn viện dẫn khoản 1 Điều 19 của Điều lệ công ty để cho rằng thành phần cổ đông đã được triệu tập và đã tham gia đại hội là không đúng theo Điều lệ (có một số cổ đông sở hữu dưới 1% vốn điều lệ). Tuy nhiên, quy định này của Điều lệ công ty là trái với quy định của pháp luật tại Điều 15 và điểm a khoản 1 Điều 53 Luật doanh nghiệp năm 1999 ( Quy định mọi cổ đông phổ thông đều có quyền tham dự và biểu quyết tất cả các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông). Do đó, quy định nói trên của Điều lệ công ty không có hiệu lực để thực hiện.
– Về lý do thứ tư (
Pháp luật cũng như Điều lệ công ty không có quy định
– Về lý do thứ năm (danh sách ứng cử viên HĐQT và Ban kiểm soát chưa được thẩm tra tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 27 và Điều 35 của Điều lệ và chưa thông qua đại hội theo Quy chế và Chương trình đại hội):
Thứ nhất, không có quy định nào của Điều lệ công ty cũng như quy định của pháp luật buộc phải thẩm tra tiêu chuẩn của các ứng cử viên HĐQT và Ban kiểm soát tại đại hội trước khi bỏ phiếu bầu HĐQT và Ban kiểm soát.
Thứ hai, Chương trình đại hội (mục A 8) chỉ ghi “ Thông qua danh sách đề cử người vào HĐQT và Ban kiểm soát nhiệm kỳ II của nhóm cổ đông ……….”, không có ghi “Thông qua danh sách ứng cử viên vào HĐQT và Ban kiểm soát nhiệm kỳ II ……..” . Về nội dung của mục này, các bên có ý kiến giải thích khác nhau: bị đơn cho rằng đó là danh sách ứng cử viên trong khi nguyên đơn lại không thừa nhận mà cho rằng đó là danh sáchngười đề cử (tức là nhóm cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ có quyền đề cử); không phải là danh sách ứng cử viên.
Thứ ba, dù hiểu nội dung mục A 8 nói trên như thế nào (theo nguyên đơn hay theo bị đơn giải thích) thì có một sự thật đã được khẳng định: tất cả các đại biểu (là cổ đông hoặc đại diện cổ đông) có mặt tại đại hội đã đồng ý bỏ phiếu và thực tế đã hoàn tất việc bỏ phiếu bầu HĐQT và Ban kiểm soát nhiệm kỳ II mà hoàn toàn không có một ý kiến nào khiếu nại hoặc yêu cầu chủ tọa phải tạm dừng đại hội để có thời gian thực hiện mục A 8 trước khi bỏ phiếu bầu HĐQT và Ban kiểm soát nhiệm kỳ II. Như vậy, bằng hành vi của tất cả các đại biểu có mặt cùng bỏ phiếu bầu, có cơ sở để xác định đại hội đã nhất trí 100% thông qua mục A 8 (nếu hiểu theo nghĩa do nguyên đơn giải thích), tức là đại hội đã được tiến hành đúng theo trình tự ghi trong chương trình của đại hội mà người triệu tập đã gửi đến các cổ đông trước khi tiến hành đại hội, hoặc là đại hội đã nhất trí 100% bỏ qua mục A 8 (nếu hiểu theo nghĩa do bị đơn giải thích), tức là chính đại hội đã nhất trí thay đổi chương trình của cuộc họp (chứ không phải chỉ là quyết định của một số cổ đông có mặt). Dù thuộc trường hợp nào (tiến hành đúng trình tự hay thay đổi chương trình) thì đại hội cũng đã được tiến hành hợp lệ theo quy định tại khoản 6 Điều 22 của Điều lệ công ty cũng như quy định tại khoản 4 Điều 76 Luật doanh nghiệp năm 1999 vì đã được sự nhất rrí của 100% đại biểu có mặt, hoàn toàn không có sự vi phạm trong vấn đề này.
Thứ tư, nếu coi các đại biểu (là cổ đông hoặc đại diện cổ đông) rời khỏi đại hội ngay sau khi đã bỏ phiếu bầu HĐQT và Ban kiểm soát nhiệm kỳ II là cổ đông vắng mặt tại đại hội (tức là tự mình từ bỏ quyền tham dự đại hội) thì số đại biểu cổ đông còn lại vẫn đủ điều kiện tiến hành đại hội theo quy định (vì chiếm tỷ lệ trên 51% số cổ phần có quyền biểu quyết) (81.028 cổ phần/158.238 cổ phần = 51,21%) và đủ điều kiện để thông qua quyết định của đại hội (vì đã được 100% đại biểu có mặt còn lại nhất trí biểu quyết bằng phiếu bầu).
Do đó, yêu cầu hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông vì lý do này là hoàn toàn không chính đáng và không có căn cứ.
c) Về yêu cầu của ông Trần Hải Aâu ghi trong đơn khởi kiện buộc ông Nguyễn Văn Khảm giao trả các phòng làm việc của công ty:
Việc ông Nguyễn Văn Khảm đơn phương dùng vũ lực phong tỏa các phòng làm việc của công ty trong khi chưa làm thủ tục bàn giao nhiệm vụ quản lý công ty là hành vi không hợp pháp. Theo yêu cầu của ông Trần Hải Aâu, ngày 21/6/2006 Tòa án đã có Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 29/2006/QĐ-BPKCTT buộc ông Nguyễn Văn Khảm phải bàn giao ngay cho những người có trách nhiệm quản lý bộ phận có liên quan tất cả các chìa khóa phòng làm việc của công ty mà ông đang cầm giữ và ông Khảm đã thực hiện. Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề này nên HĐXX thấy không cần phải có quyết định giải quyết nữa.
6. Về án phí:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự và các điều 15, 18 và 19 Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án :
– Ông Trần Hải Âu phải chịu án phí sơ thẩm đối với loại án không có giá ngạch là 500.000 đồng.
– Hoàn trả toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp của Công ty cổ phần Đay Sài gòn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Aùp dụng các điều 70, 77, 80, 81 Luật doanh nghiệp năm 1999 và khoản 2 Điều 109 Luật doanh nghiệp năm 2005;
1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông Trần Hải Aâu và Hội đồng quản trị nhiện kỳ I của Công ty cổ phần Sản xuất Dịch vụ Thương mại Đay Sài gòn phải bàn giao nhiệm vụ, tài sản, tài liệu, sổ sách và con dấu của công ty cho Hội đồng quản trị nhiệm kỳ II (bao gồm các ông Nguyễn Quốc Định; Trần Thanh Huy; Nguyễn Văn Khảm; Thái Thành Nam và bà Nguyễn Thị Thu Lan).
2. Bác yêu cầu của bị đơn đòi hủy bỏ tất cả các quyết định của Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 15/5/2006 của Công ty cổ phần Sản xuất Dịch vụ Thương mại Đay Sài gòn.
3. Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời áp dụng theo Quyết định số 29/2006/QĐ-BPKCTT ngày 21 tháng 6 năm 2006 của Tòa án nhân dân TPHCM cho đến khi có quyết định khác của Tòa án hoặc cho đến khi thi hành án.
4. Về án phí :
– Oâng Trần Hải Aâu phải chịu án phí sơ thẩm là 500.000 đ (năm trăm ngàn đồng), nộp tại thi hành án dân sự TPHCM.
– Ông Nguyễn Văn Khảm không phải chịu án phí sơ thẩm.
– Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp 50.000 đồng (theo Biên lai thu tiền số 008303 ngày 18 tháng 5 năm 2006 của Thi hành án dân sự Quận 1) và 250.000 đồng (theo Biên lai thu tiền số 002174 ngày 08 tháng 6 năm 2006 của Thi hành án dân sự TPHCM) cho Công ty cổ phần Sản xuất Dịch vụ Thương mại Đay Sài gòn.
5. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn:
+ 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đối với đương sự có mặt.
+ 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án, đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa./.