Khái quát về hợp đồng mua bán tài sản? Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán tài sản?
Hợp đồng mua bán tài sản là hợp đồng thông dụng và phổ biến nhất trong các giao dịch dân sự, là công cụ pháp lý không thể thiếu để các chủ thể đạt được lợi ích của mình thông qua thỏa thuận về việc chuyển quyền sở hữu tài sản và chuyển giao tiền. Trong hợp đồng mua bán tài sản luôn có ít nhất hai bên chủ thể tham gia đó là bên mua và bên bán, quyền và nghĩa vụ của họ xuyên suốt từ khi thiết lập hợp đồng và cho đến khi hoàn thành việc chuyển giao tiền và tài sản (và có thể hơn thế). Để hiểu rõ hơn về nội dung này, trong bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ lấy chủ đề “Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán tài sản” để phân tích và cung cấp cho người đọc các khía cạnh pháp lý xoay quanh.
Cơ sở pháp lý:
1. Khái quát về hợp đồng mua bán tài sản?
1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán tài sản?
Khái niệm về
Hợp đồng mua bán tài sản là phương tiện pháp lý để các chủ thể thực hiện quyền tự do trong giao lưu dân sự để thỏa mãn nhu cầu của mình. Đây còn là điều kiện để các giao dịch dân sự phát triển, hàng hóa lưu thông, thúc đẩy sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu kinh tế thị trường. Chế định hợp đồng mua bán tài sản còn là cơ sở để các chủ thể giao dịch đúng pháp luật, đồng thời còn là công cụ pháp lý hữu hiệu để nhà nước hướng dẫn cách hành xử cho công dân, bảo vệ các bên khi có tranh chấp xảy ra.
1.2. Chủ thể trong hợp đồng mua bán tài sản?
Chủ thể của hợp đồng mua bán tài sản gồm có bên mua và bên bán. Trong quan hệ hợp đồng mua bán tài sản luôn có sự xuất hiện của hai chủ thể này, nếu thiếu một trong hai thì không thỏa mãn quan hệ giữa mua và bán.
Bên bán là người có tài sản đem bán, bên bán có thể là chủ sở hữu tài sản hoặc là người được chủ sở hữu ủy quyền hợp pháp bán tài sản hoặc là người có quyền bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật.
Bên mua là người có nhu cầu mua tài sản và đã thỏa thuận thống nhất ý chí với bên bán về việc mua tài sản, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Bên bản và bên mua có thể có cá nhân hoặc pháp nhân, ngoài ra còn có hộ gia đình, tổ hợp tác là những chủ thể đặc biệt. Chủ thể tham gia hợp đồng mua bán tài sản phải đáp ứng điều kiện của một giao dịch dân sự thông thường, có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
Hợp đồng mua bán tài sản là loại hợp đồng song vụ, trong đó có sự tham gia của hai chủ thể là bên bán và bên mua tương ứng với đó là quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
2. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán tài sản?
Các thức quy định về quyền và nghĩa vụ của bên mua và bên bán trong hợp đồng mua bán tài sản ở Bộ luật dân sự khác với các hợp đồng khác như hợp đồng vay tài sản, hợp đồng mượn tài sản,…văn bản này không dành riêng các quy định để tập trung về quyền cũng như nghĩa vụ của các bên, mà được tổ chức thành các điều khoản riêng biệt. Trên cơ sở tổng hợp và phân tích quy định của pháp luật, tác giả có thể đúc kết các quyền, nghĩa vụ của chủ thể trong các tiểu mục dưới đây:
2.1. Bên bán?
Thực tế, so với bên mua, bên bán có quyền ít hơn so với bên mua, điều đó cũng đồng nghĩa bên bán có nhiều nghĩa vụ hơn so với bên mua. Quyền cơ bản nhất mà bên bán có được là “quyền yêu cầu bên mua phải trả tiền theo như thỏa thuận khi giao kết hợp đồng”. Đây là quyền hoàn toàn chính đáng xuất phát từ mục đích của việc thiết lập hợp đồng mua bán, bên bán chỉ thực hiện bán tài sản khi mong muốn thu lại một lợi ích vật chất (tiền), để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân. (Quyền này sẽ được phân tích cụ thể hơn ở phần nghĩa vụ trả tiền của bên mua).
Trong hợp đồng mua bán, quyền sở hữu tài sản có thể được bên bán bảo lưu cho đến khi nghĩa vụ thanh toán được thực hiện đầy đủ. Bảo lưu quyền sở hữu cũng được coi là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, vì vậy, quyền này không mang tính chất thuần túy mà dựa trên cơ sở thỏa thuận của bên bán và bên mua.
Bên bán có các nghĩa vụ như sau:
Thứ nhất, nghĩa vụ giao tài sản. Đây là nghĩa vụ xuất phát từ việc, người bán là người đang nắm giữ trực tiếp tài sản, việc chuyển giao phải phù hợp với địa điểm, phương thức và đúng thời hạn (bên bán chỉ được giao tài sản trước hoặc sau thời hạn nếu được bên mua đồng ý.). Bên cạnh đó, bên bán phải giao đúng số lượng, giao tài sản với số lượng nhiều hơn số lượng đã thỏa thuận thì bên mua có quyền nhận hoặc không nhận phần dôi ra; nếu nhận thì phải thanh toán đối với phần dôi ra theo giá được thỏa thuận trong hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Bên bán còn phải có trách nhiệm giao vật đồng bộ, đúng chủng loại tránh làm cho mục đích sử dụng của vật không đạt được.
Thứ hai, nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu đối với tài sản đã bán cho bên mua. Việc bảo đảm quyền sở hữu này thể hiện bị người thứ ba tranh chấp. Nếu tài sản bị người thứ ba tranh chấp thì bên bán phải đứng về phía bên mua để bảo vệ quyền lợi của bên mua. Đây là nghĩa vụ cực kỳ quan trọng, tránh tình trạng mua bán tài sản không có căn cứ, đặc biệt là các tài sản từ hành vi vi phạm pháp luật như trộm cắp. Đồng thời, đây là nghĩa vụ với tư cách là chủ sở hữu, người được chủ sở hữu ủy quyền chuyển giao quyền sở hữu cho bên mua khi họ đã thanh toán theo đúng quy định.
Thứ ba, nghĩa vụ cung cấp thông tin và hướng dẫn cách sử dụng. Bằng việc là người hiểu rõ “hàng hóa”, mà mình bán, bên bán có nghĩa vụ cung cấp cho bên mua thông tin cần thiết về tài sản mua bán và hướng dẫn cách sử dụng tài sản đó, điều này nhằm đảm rằng bên mua phải đảm bảo được mục đích khi giao kết hợp đồng.
Thứ tư, nghĩa vụ bảo đảm chất lượng vật mua bán. Điều này tránh tình trạng quảng cáo một cách quá đà, không thực sự đúng với mô tả thông thường của sản phẩm, nguyên tắc của nghĩa vụ này là bên bán phải bảo đảm giá trị sử dụng hoặc các đặc tính của vật mua bán, phải bảo đảm rằng vật không bị khuyết tật làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị sử dụng của vật, nếu có thì phải thông báo với bên mua, nếu bên mua đồng ý thì không phải chịu các trách nhiệm khác.
Thứ năm, nghĩa vụ bảo hành. Nghĩa vụ bảo hành không mang tính bắt buộc tuyệt đối, nó có thể do hai bên thỏa thuận và bắt buộc trong trường hợp luật định. Thời hạn bảo hành được tính kể từ thời điểm bên mua có nghĩa vụ phải nhận vật. Nghĩa vụ bảo hành chỉ phát sinh khi vật có khuyết tật và bên mua có yêu cầu bảo hành.
2.2. Bên mua?
Quyền của bên mua không được quy định một cách cụ thể, rõ ràng, mà xuất phát từ việc vi phạm nghĩa vụ của bên bán, có thể kể đến một số quyền như: (1) quyền hủy hợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bán giao tài sản cho bên mua thành nhiều lần mà bên bán thực hiện không đúng nghĩa vụ ở một lần nhất định; bên bán giao ít hơn số lượng đã thỏa thuận; vật được giao không đồng bộ làm cho mục đích sử dụng của vật không đạt được; tài sản được giao không đúng chủng loại,….(2) quyền yêu cầu cung cấp thông tin và hướng dẫn cách sử dụng trong trong một thời hạn hợp lý. (3) quyền yêu cầu bên bán sửa chữa, đổi vật có khuyết tật lấy vật khác, giảm giá và bồi thường thiệt hại, khi bên mua phát hiện khuyết tật làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị sử dụng của vật đã mua. (4) quyền yêu cầu bên bán sửa chữa không phải trả tiền, giảm giá, đổi vật có khuyết tật lấy vật khác hoặc trả lại vật và lấy lại tiền trong thời hạn bảo hành. Đây là các quyền cơ bản phát sinh từ nghĩa vụ đối ứng của bên bán, các quyền này hoàn toàn hợp lí khi bên mua với tư cách là chủ thể mất đi một lợi ích vật chất (tiền) để giao kết hợp đồng mua một tài sản nhất định để sử dụng đúng mục đích của mình.
Nghĩa vụ quan trọng nhất của bên mua là “nghĩa vụ trả tiền”. Nghĩa vụ này gắn với quyền đối ứng của bên bán là quyền “yêu cầu trả tiền”. Khoản 1, Điều 440 Bộ luật dân sự đã khẳng định: “Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền theo thời hạn, địa điểm và mức tiền được quy định trong hợp đồng.” Thông thường, khi bên bán giao tài sản thì bên mua sẽ thực hiện luôn nghĩa vụ trả tiền, tuy nhiên việc thực hiện nghĩa vụ này cũng do các bên thỏa thuận, pháp luật tôn trọng ý chí của các bên, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc: “Nếu không xác định hoặc xác định không rõ ràng thời gian thanh toán thì bên mua phải thanh toán ngay tại thời điểm nhận tài sản mua hoặc nhận giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản.” Nếu bên mua chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo đúng thời hạn thì họ phải chịu thêm khoản lãi trên số tiền chậm trả.