Cụm từ quyền tài phán được nhắc nhiều trong pháp luật quốc tế, là một trong những quyền tối cao của mỗi quốc gia khi nói về chủ quyền trên biển hay khi các vụ tranh chấp chủ quyền trên biển diễn ra. Quyền tài phán được thực hiện trong phạm vi do luật pháp quốc tế cũng như pháp luật của mỗi quốc gia có biển đã quy định.
Mục lục bài viết
- 1 1. Quyền tài phán quốc gia là gì?
- 2 2. Quyền tài phán của quốc gia ven biển theo Luật quốc tế:
- 2.1 2.1. Quyền tài phán của quốc gia trong nội thủy:
- 2.2 2.2. Quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng lãnh hải:
- 2.3 2.3. Quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng tiếp giáp lãnh hải:
- 2.4 2.4. Quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế:
- 2.5 2.5. Quyền tài phán của quốc gia ven biển trong thềm lục địa:
1. Quyền tài phán quốc gia là gì?
Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước Luật Biển 1982) được 119 đoàn đại diện của các nước, trong đó có Việt Nam chính thức ký kết ngày 10-12-1982, tại Môn-tê-gô-bay của Gia-mai-ca và có hiệu lực từ ngày 16-11-1994. Sự ra đời của Công ước có ý nghĩa hết sức quan trọng, là cơ sở pháp lý quốc tế gốc có giá trị cao nhất mà các quốc gia tham gia ký kết phải có trách nhiệm ràng buộc và thực hiện toàn bộ các điều Khoản. Công ước bao gồm 17 phần, 320 điều Khoản và nhiều phụ lục, nghị quyết kèm theo; trong đó, có nội dung quy định chi tiết về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán.
Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển trong việc đưa ra các quyết định, quy phạm và giám sát việc thực hiện chúng, như: cấp phép, giải quyết và xử lý đối với một số loại hình hoạt động, các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo các thiết bị và công trình nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó.
Và cũng theo Công ước Luật Biển năm 1982, các quốc gia ven biển có chủ quyền đối với nội thủy và lãnh hải của mình, chủ quyền này cũng được mở rộng vùng trời ở bên trên đến vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển ở bên dưới các vùng biển đó. Như vậy, đây là những quy định bắt buộc mà các quốc gia ký kết phải nghiên cứu, thực hiện nghiêm túc, nhằm tạo sự thống nhất, trật tự, giữ gìn an ninh, an toàn, tự do hàng hải chung trên biển; đồng thời, phải tôn trọng chủ quyền lãnh thổ bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia, không vì lợi ích kinh tế, lợi ích quốc gia mình mà bỏ qua lợi ích chung của khu vực, thế giới, vi phạm vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, lãnh hải của quốc gia khác đã được quy định trong Công ước, gây phức tạp tình hình an ninh trên biển. Các quốc gia cần thấy rõ trách nhiệm của mình đối với việc thực hiện Công ước; kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng bành trướng, cường quyền, hành vi vi phạm quy định của Công ước, thiếu tôn trọng, bỏ qua luật pháp quốc tế. Mọi vướng mắc, nảy sinh, phải cùng nhau đàm phán cả song phương và đa phương, giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, tạo sự thống nhất, đồng thuận. Không manh động, sử dụng bạo lực bởi điều đó sẽ không mạng lại lợi ích chung cho các bên.
2. Quyền tài phán của quốc gia ven biển theo Luật quốc tế:
Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển trong việc đưa ra các quyết định, quy phạm và giám sát việc thực hiện mọi hoạt động trên biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia mình như: cấp phép, giải quyết và xử lý đối với một số hoạt động cụ thể, các đạo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, bảo vệ và giữ gìn môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó, điều đó được quy định cụ thể tại Công ước của Liên hợp quốc về luật Biển năm 1982 (Công ước năm 1982). Theo quy định tại Công ước năm 1982, quyền tài phán của quốc gia trên biển bao gồm:
2.1. Quyền tài phán của quốc gia trong nội thủy:
Đối với tàu quân sự, các tàu thuyền quân sự thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của quốc gia đó giao phó. Thành viên của tàu quân sự cũng chính là những công dân mang quốc tịch của quốc gia mà tàu mang cờ. Khi hoạt động ở bất cứ vùng biển nào, kể cả các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của quốc gia khác hay vùng biển quốc tế, tàu quân sự nước ngoài sẽ được hưởng quyền miễn trừ tuyệt đối và bất khả xâm phạm; Trong trường hợp tàu quân sự nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật của quốc gia ven biển thì quốc gia ven biển có quyền:
– Yêu cầu tàu đó ra khỏi vùng nội thủy trong một thời gian nhất định;
– Yêu cầu quốc gia mà tàu đó mang quốc tịch phải áp dụng chế tài nghiêm khắc đối với thủy thủy đoàn vi phạm;
– Yêu cầu quốc gia có tàu phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm của tàu đó gây ra trong nội thủy của quốc gia ven biển.
Đối với tàu dân sự, gồm:
– Quyền tài phán dân sự, về nguyên tắc, đối với tàu dân sự, luật điều chỉnh là luật quốc gia mà tàu mang cờ. Do đó, các
– Quyền tài phán hình sự, tàu dân sự ngước ngoài khi hoạt động trong nội thủy của quốc gia ven biển sẽ không được hưởng quyền miễn trừ như tàu dân sự. Bởi, tàu dân sự là những chiếc tàu do cá nhân, pháp nhân làm chủ hoặc là tàu nhà nước sử dụng vào mục đích thương mại như vận tải, buôn bán nhằm mục đích sinh lời. Do vậy, theo luật quốc tế, quốc gia ven biển sẽ có thẩm quyền xét xử đối với các vụ vi phạm pháp luật hình sự xảy ra trong tàu dân sự nước ngoài đang hoạt động trong vùng nội thủy của quốc gia ven biển. Nên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền của quốc gia ven biển có quyền khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các cá nhân có hành vi phạm tội trên tàu.
2.2. Quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng lãnh hải:
Đối với tàu quân sự: Tại tiểu mục C Công ước năm 1982 (từ Điều 29 đến Điều 32) quy định về quy tắc áp dụng cho tàu chiến và các tàu thuyền khác của nhà nước được dùng vào những mục đích không thương mại. Trong trường hợp, nếu một tàu quân sự không tôn trọng các luật và quy định của quốc gia ven biển, có liên quan đến việc đi qua trong lãnh hải và bất chấp yêu cầu phải tuân theo các luật và quy định đó đã được
Đối với tàu dân sự, gồm:
– Quyền tài phán về dân sự, theo quy định tại Điều 28 Công ước năm 1982 thì: Quốc gia ven biển không được bắt một tàu nước ngoài đang đi qua lãnh hải phải dừng lại hay thay đổi quá trình của nó để thực hiện quyền tài phán dân sự của nó để thực hiện quyền tài phán dân sự của mình đối với một người ở trên con tàu đó; Quốc gia ven biển không thể áp dụng các biện pháp trừng phạt hay biện pháp bảo đảm về mặt dân sự đối với con tàu này, nếu không phải vì những nghĩa vụ đã cam kết hay các trách nhiệm mà con tàu phải đảm nhận trong khi đi qua hoặc để được đi qua vùng biển của quốc gia ven biển; Khoản 2 không đụng chạm đến quyền của quốc gia ven biển áp dụng các biện pháp trừng phạt hay bảo đảm về mặt dân sự do luật trong nước của quốc gia này quy định đối với một tàu thuyền nước ngoài đang đậu trong lãnh hải hay đi qua lãnh hải, sau khi đã rời nội thủy;
– Quyền tài phán hình sự trên một tàu nước ngoài thì: Theo quy định tại Khoản 1, Điều 27, Công ước năm 1982, về nguyên tắc, quốc gia ven biển không được quyền tài phán hình sự của mình ở trên một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải để tiến hành việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vi phạm hình sự xảy ra trên con tàu trong khi nó đi qua lãnh hải, trừ các trường hợp sau đây:
+ Nếu hậu quả của vi phạm đó mở rộng đến quốc gia ven biển;
+ Nếu vụ vi phạm có tính chất phá hoại hòa bình của đất nước hay trật tự trong lãnh hải;
+ Nếu thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các nhà đương cục địa phương hoặc;
+ Nếu các biện pháp này là cần thiết để trấn áp việc buôn lậu chất ma túy hay các chất kích thích.
Quy định trên không đụng chạm gì đến quyền của quốc gia trên biển áp dụng mọi luật pháp mà luật trong nước mình quy định nhằm tiến hành các việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm ở trên con tàu nước ngoài đi qua lãnh hải sau khi rời khỏi nội thủy; Trường hợp, nếu thuyền trưởng yêu cầu, quốc gia ven phải thông báo trước về mọi biện pháp cho một viên chức ngoại giao hay cho một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ và phải tạo điều kiện dễ dàng cho viên chức ngoại giao hay viên chức lãnh sự đó tiếp xúc với đoàn thủy thủ của con tàu. Tuy nhiên trong trường hợp khẩn cấp, việc thông báo này có thể tiến hành trong khi các biện pháp đang được thi hành; Khi xem xét có nên bắt giữ và các thể thức của việc bắt giữ, nhà đương cục địa phương cần phải chú ý thích đáng đến các lợi ích về hàng hải; trong trường hợp có sự vi phạm các luật và quy định được định ra, quốc gia ven biển không được thực hiện một biện pháp nào ở trên một con tàu nước ngoài khi nó đi qua lãnh hải nhằm tiến hành bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vị phạm hình sự xảy ra trước khi con tàu đi vào lãnh hải mà không đi vào nội thủy.
2.3. Quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng tiếp giáp lãnh hải:
Quốc gia ven biển có quyền thi hành sự kiểm soát cần thiết nhằm: ngăn ngừa việc vi phạm các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, nhập cư hay y tế trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình; trừng trị việc vi phạm các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
2.4. Quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế:
Theo quy định tại Điểm b, Khoản 1 Điều 56, Công ước năm 1982 quốc gia ven biển có các quyền tài phán: Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; Nghiên cứu khoa học về biển; Bảo vệ và giữ gìn môi trường biển.
Công ước năm 1982 còn quy định, trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển, tất cả các quốc gia, bất kể là quốc gia có biển hay không có biển, trong những điều kiện do các quy định thích hợp của Công ước Luật biển năm 1982 trù định, đều được hưởng 3 quyền tự do cơ bản: Quyền tự do hàng hải; Quyền tự do hàng không; Quyền tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm. Trong khi thực hiện các quyền tài phán của mình, quốc gia ven biển phải tôn trọng các quyền tự do của các quốc gia khác và ngược lại.
2.5. Quyền tài phán của quốc gia ven biển trong thềm lục địa:
Điều 77 Công ước năm 1982 quy định trong thềm lục địa của mình, các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa của mình. Nghĩa là các quốc gia ven biển không thăm dò thêm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động trên, nếu không có sự thỏa thuận rõ ràng của quốc gia đó. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào.
Các tài nguyên thiên nhiên ở phần này gồm các tài nguyên thiên nhiên khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên không sinh vật khác của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như các sinh vật thuộc loại định cư, nghĩa là những sinh vật ở thời kỳ nào, ở thời kỳ có thể đánh bắt được hoặc nằm bất động ở đáy hoặc lòng đất dưới đáy, hoặc là không có khả năng di chuyển nếu không có khả năng tiếp xúc với đáy hay lòng đáy dưới đáy biển.
Hiện nay, các quốc gia ven biển đang khai thác dầu và khí để phục vụ phát triển đất nước. Sau này, khi các nguồn tài nguyên ở trên đất liền khan hiếm thì các quốc gia ven biển sẽ khai thác các tài nguyên khác ở thềm lục địa của mình. Cần lưu ý là quyền chủ quyền đối với thềm lục địa mang tính đặc quyền ở chỗ nếu quốc gia đó không thăm dò, khai thác thì cũng không ai có quyền khai thác tại đây nếu không được sự đồng ý của quốc gia ven biển đó.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
– Công ước Liên hợp quốc về Luật biển.