Theo quy định tại Điều 166 BLTTHS 2015 và Điều 15 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Theo quy định tại Điều 166 BLTTHS 2015 và Điều 15 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, cụ thể:
Mục lục bài viết
- 1 1. Kiểm sát việc tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ:
- 2 2. Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án:
- 3 3. Kiểm sát việc áp dụng thay đổi huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế:
- 4 4. Kiểm sát hoạt động tham gia tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng:
- 5 5. Kiểm sát tính hợp pháp của các quyết định tố tụng mang tính chất giải quyết vụ án:
- 6 6. Giải quyết tranh chấp thẩm quyền điều tra:
1. Kiểm sát việc tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ:
Sau khi khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, CQĐT tiếp tục tiến hành các hoạt động điều tra để thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm chứng minh tội phạm, người phạm tội. Khi CQĐT áp dụng các biện pháp để điều tra, VKS có trách nhiệm bảo đảm cho
mọi biện pháp điều tra phải được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
– Kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi
Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi là một hoạt động điều tra nhằm phát hiện, xem xét, ghi nhận, thu thập, bảo quản các dấu vết, vật chứng có trên hiện trường, tử thi và góp phần làm sáng tỏ các tình tiết liên quan đến vụ án đó
Kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi là hoạt động của VKS nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Điều tra viên, các thành viên Hội đồng khám nghiệm và những người có liên quan để bảo đảm cho việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi của CQĐT được thực hiện đúng qui định của pháp luật nhằm xác định có hay không có hành vi phạm tội xảy ra, ai là người thực hiện hành vi đó, từ đó quyết định khởi tố vụ án hình sự hay không. VKS thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi không chỉ nhằm bảo đảm cho hoạt động này được tiến hành khách quan, toàn diện và đúng pháp luật mà còn có thể nắm rõ các tình tiết liên quan ngay từ ban đầu khi tội phạm xảy ra để làm cơ sở cho việc kiểm sát các hoạt động tiếp theo như: kiểm sát việc khởi tố bị can, hỏi cung bị can, ...
Theo quy định tại Điều 201 và Điều 202 BLTTHS 2015 thì trong mọi trường hợp, Điều tra viên phải thông báo cho VKS cùng cấp về thời gian, địa điểm khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi để cử Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc khám nghiệm.
VKS kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi nhằm đảm việc công tác khám nghiệm thực hiện theo các yêu cầu sau:
– Việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật trong suốt quá trình khám nghiệm như thành phần Hội đồng khám nghiệm, trình tự khám nghiệm; các biện pháp phát hiện, ghi nhận, thu thập,
bảo quản dấu vết, vật chứng; biên bản khám nghiệm có được lập đúng quy định hay không, nội dung biên bản có đảm bảo mô tả đầy đủ, toàn diện các đặc điểm, tình trạng, dấu vết của hiện trường, tử thi hay không?...
– Hoạt động khám nghiệm hiện trường, tử thi phải được tiến hành nhanh chóng, khẩn trương, kịp thời vì hiện trường vụ án dễ bị xáo trộn, nếu CQĐT và Hội đồng khám nghiệm không tiến hành hoạt động này một cách khẩn trương, kịp thời thì sẽ không đảm bảo việc phát hiện và thu thập được đầy đủ, chính xác các dấu vết, vật chứng để có căn cứ chứng minh tội phạm.
– Hoạt động khám nghiệm hiện trường, tử thi phải đảm bảo tính khách quan. Khi tổ chức khám nghiệm hiện trường, tử thi phải có sự chứng kiến của chính quyền địa phương hoặc đại điện các tổ chức đoàn thể trên địa bàn, trong một số trường hợp còn cần có sự chứng kiến của người làm chứng, người bị hại, bị can... Hoạt động khám nghiệm phải thực hiện theo ý kiến của người có chuyên môn, Điều tra viên không được áp đặt ý kiến của mình hoặc chỉ đạo người có chuyên môn thực hiện việc khám nghiệm.
– Hoạt động khám nghiệm hiện trường, tử thi phải toàn diện. Hiện trường vụ án và tử thi để lại rất nhiều dấu vết, vật chứng. Điều tra viên, Kiểm sát viên phải có kinh nghiệm và nghiệp vụ giỏi để định hướng khám nghiệm hiện trường từ đầu, tìm kiếm, thu thập những dấu vết gì? Nếu việc khám nghiệm được thực hiện qua loa, sơ sài, bỏ sót các dấu vết, vật chứng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình điều tra, giải quyết vụ án. Hiện trường vụ án và tử thi theo thời gian sẽ bị tác động bởi các yếu tố chủ quan và khách quan nên việc khám nghiệm lại sẽ không thể thực hiện được hoặc có thực hiện lại thì cũng không đảm bảo giá trị và ý nghĩa trong việc chứng minh tội phạm.
| Như vậy, VKS thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi là để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động điều tra, hạn chế những thiếu sót, vi phạm của CQĐT ngay từ đầu để có cơ sở cho quá trình tiến hành tố tụng vụ án hình sự.
– Kiểm sát việc hỏi cung bị can
Kiểm sát việc hỏi cung bị can là hoạt động của Kiểm sát viên sử dụng các quyền năng pháp lý độc lập để kiểm sát việc tuân theo pháp luật của điều tra viên trong quá trình hỏi cung bị can nhằm bảo đảm việc hỏi cung được tiến hành một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật.
Hỏi cung bị can là hoạt động điều tra nhằm thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can. Đây là một hoạt động tố tụng quan trọng vì vậy KSV phải tiến hành kiểm sát chặt chẽ việc hỏi cung bị can thông qua hai phương thức: Tham gia trực tiếp buổi hỏi cung của Điều tra viên hoặc nghiên cứu biên bản hỏi cung. Qua nghiên cứu biên bản hỏi cung, nếu thấy chưa là rõ được chứng cứ buộc tội cũng như các chứng cứ xác định không có tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can hoặc chưa phân hóa làm rõ được vai trò của từng bị can khi có nhiều đối tượng cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội, thì VKS cần yêu cầu CQĐT hỏi bổ sung bị can để làm rõ các vấn đề trên.
Lần đầu tiên, BLTTHS Việt Nam ghi nhận việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh hoạt động hỏi cung bị can, cụ thể tại BLTTHS năm 2015 quy định:
Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Trên cơ sở quy định này, Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLTBCA VKSNDTC–TANDTC–BQP ngày 01/02/2018 đã hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Để hoạt động hỏi cung bị can được tiến hành khách quan, đúng pháp luật thì VKS phải chủ động giám sát hoạt động hỏi cung của CQĐT về trình tự, thủ tục tiến hành cũng như về nội dung hỏi cung bị can. Căn cứ pháp luật để VKS thực hiện việc kiểm sát hoạt động hỏi cung của CQĐT được quy định ở Luật Tổ chức VKSND năm 2014; các quy định của BLTTHS năm 2015, nổi bật là quy định tại khoản 01 Điều 183 về việc thông báo về hoạt động hỏi cung bị can cho KSV:
Việc hỏi cung bị can do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi của người đó. Trước khi hỏi cung bị can, Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm sát viên và người bào chữa thời gian, địa điểm hỏi cung. Khi xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên tham gia việc hỏi cung bị can.
Theo Điều 28, Quy chế tạm thời công tác THQCT, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố, khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can, VKS bám sát các nội dung sau:
+ Hỏi cung bị can phải được tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Nếu qua kiểm sát thấy CQĐT tiến hành hỏi cung bị can trước khi có quyết định khởi tố bị can hoặc trong lần hỏi cung lần đầu ĐTV chưa giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ của bị can theo quy định tại Điều 60 của BLTTHS (thể hiện trong biên bản hỏi cung) thì đây là những vi phạm nghiêm trọng trong TTHS, VKS phải yêu cầu CQĐT hủy bỏ, khắc phục kết quả hỏi cung đó và thực hiện quyền kiến nghị.
+ Qua kiểm sát nội dung các biên bản hỏi cung bị can, nếu thấy chưa làm rõ được chứng cứ buộc tội cũng như chứng cứ gỡ tội và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS, miễn TNHS của bị can hoặc CQĐT chưa phân hóa làm rõ được các vai trò của từng bị can khi có nhiều đối tượng cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội thì VKS cần yêu cầu CQĐT hỏi bổ sung bị can để làm rõ các vấn đề trên bằng các hình thức như: Trực tiếp yêu cầu trong quá trình hỏi cung bị can cùng ĐTV hoặc yêu cầu thông qua việc ban hành Yêu cầu điều tra.
+ VKS đảm bảo các bản cung mà CQĐT tiến hành hỏi cung bị can phải làm rõ được hành vi phạm tội của bị can đã bị khởi tố, những mâu thuẫn trong lời khai của bị can cần phải được phân tích làm rõ trên cơ sở tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án để định hướng những biện pháp điều tra tiếp theo. Trên cơ sở việc kiểm sát các tài liệu điều tra được cung cấp từ CQĐT theo quy định tại Điều 88 của BLTTHS, KSV phải giám sát chặt chẽ, trích cứu và theo dõi diễn biến lời khai của bị can để đảm bảo chất lượng trong công tác này. Ngoài ra, trong những vụ án mà người phạm tội là người chưa thành niên thì VKS phải chú ý việc tiến hành hoạt động này phải thông báo trước thời gian, địa điểm hỏi cung cho người bào chữa, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can. Thời gian hỏi cung đối với bị can là người chưa thành niên không quá 02 lần trong 01 ngày và mỗi lần không quá 02 giờ, trừ một số trường hợp theo quy định tại Điều 421 của BLTTHS. Tóm lại, kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can này phải chú trọng tính khách quan, trung thực và đúng quy định pháp luật về hình thức. Kết quả hỏi cung bị can cần phải được KSV theo dõi chặt chẽ nhằm xem xét tính phù hợp với các chứng cứ khác đã thu thập. Nếu nhận thấy lời khai bị can không trung thực, hoặc có dấu hiệu bị cưỡng ép, không có giá trị chứng minh tội phạm thì VKS cần có những biện pháp như trực tiếp hỏi cung bị can nhằm sớm can thiệp, khắc phục những khó khăn trong việc hỏi cung bị can cũng như giải quyết vụ án. Chức năng kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can góp phần rất quan trọng vào việc truy cứu TNHS đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội.
Kiểm sát hoạt động hỏi cũng phải bảo đảm được ba yếu tố là khách quan, trung thực và đúng pháp luật. Kết quả lời khai của bị can phù hợp với các chứng cứ khác đã thu thập được của vụ án thì được coi là chứng cứ. Do vậy, kiểm sát việc hỏi cung bị can của VKS là rất quan trọng, nhằm góp phần giải quyết vụ án một cách đúng đắn, khách quan.
– Kiểm sát việc lấy lời khai
Kiểm sát việc lấy lời khai bao gồm kiểm sát việc lấy lời khai người làm chứng, lấy lời khai người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Lời khai người làm chứng là một nguồn chứng cứ quan trọng của vụ án hình sự. Thông qua việc lấy lời khai của người làm chứng, Điều tra viên, Kiểm sát viên có thể nắm được diễn biến của hành vi phạm tội, biết được các mối quan hệ, tính cách của bị can để từ đó xác định phương hướng, kế hoạch điều tra tiếp theo.
Khi kiểm sát việc lấy lời khai của người bị hại, nếu thấy còn có điểm nghi ngờ, chưa rõ hoặc còn thiếu vấn đề nào đó chưa được Điều tra viên làm sáng tỏ thì VKS phải yêu cầu Điều tra viên tiến hành lấy lời khai bổ sung của người bị hại.
Khi kiểm sát các hoạt động lấy lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, phải yêu cầu Điều tra viên tạo điều kiện cho họ đưa ra những đồ vật, tài liệu và những yêu cầu liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ, nhất là đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự.
– Kiểm sát việc đổi chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra
Đối chất, nhận dạng và thực nghiệm điều tra là những hoạt động điều tra quan trọng và cần thiết nhằm giải quyết những mâu thuẫn trong các lời khai của những người tham gia tố tụng hoặc để xác định người, vật, ảnh của một người nào đó liên quan tới vụ án. Qua việc nhận dạng, đối chất và thực nghiệm điều tra sẽ góp phần làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án.
Trong quá trình KSĐT, nếu thấy có mâu thuẫn trong lời khai giữa bị can, người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, yêu cầu điều tra viên tiến hành việc đối chất. Trong quá trình kiểm sát điều tra, nếu thấy cần thiết phải nhận dạng người hay đồ vật thì yêu cầu điều tra viên tiến hành việc nhận dạng. BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung về quy định này trong đó bắt buộc VKS phải cử KSV tham gia hoạt động đối chất, nhận dạng. Tại khoản 1 Điều 189 của BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể:
Trước khi tiến hành đổi chất, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc đối chất. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc đối chất. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì
ghi rõ vào biên bản đối chất [24]. Khoản 1 Điều 190 BLTTHS năm 2015 quy định:
Trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận dạng. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận dạng. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận dạng.
Chính quy định này, đã yêu cầu nâng cao chất lượng của đối chất với việc tham gia của KSV hoạt động đối chất này. Khi nghiên cứu các biên bản đối chất, KSV cần chú ý một số vấn đề khác như:
+ Kiểm tra tính hợp pháp của việc đối chất như: Đối tượng tham gia đối chất là ai, trước khi tiến hành đối chất ĐTV đã giải thích cho họ các quyền, nghĩa vụ của mình chưa; đã hỏi về mối quan hệ giữa những người tham gia đối chất hay chưa ? ĐTV đã đọc lại biên bản đối chất cho những người có mặt nghe chưa? Việc ghi biên bản có sửa chữa, ghi thêm và ký đúng quy định chưa?
+ Kiểm tra về nội dung của biên bản đối chất: đã giải quyết các mâu thuẫn về lời khai hay chưa? Những người tham gia đối chất đã trả lời các tình tiết cần làm rõ như thế nào, đã làm rõ nguyên nhân những lời khai trước đây? Việc giải quyết mâu thuẫn có cơ sở hay không, phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác hay không?
Nếu phát hiện thấy việc đối chất, nhận dạng của CQĐT có vi phạm, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể có thể yêu cầu điều tra viên khắc phục hoặc báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng ra văn bản yêu cầu CQĐT khắc phục.
Đối với những vụ án cần thực nghiệm điều tra để kiểm tra và xác minh thêm về những tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án thì yêu cầu điều tra viên thực nghiệm điều tra. Qua hoạt động kiểm sát việc thực nghiệm điều tra, nếu phát hiện thấy điều tra viên không thực hiện đúng yêu cầu hoặc có vi phạm pháp luật thì phải kịp thời báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng có văn bản yêu cầu CQĐT khắc phục.
– Kiểm sát việc khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản
Khám xét là một trong những biện pháp tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, thu thập các tài liệu, vật chứng... để chứng minh tội phạm và người phạm tội. Nói cách khác, đây chính là hoạt động điều tra nhằm tìm kiếm dấu vết tội phạm, vật chứng hoặc những đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án.
BLTTHS năm 2015 quy định thêm trường hợp cơ quan có thẩm quyền có thể tiến hành khám phương tiện, tài liệu, dữ liệu điện tử. Mặc dù BLTTHS năm 2003 không quy định nhưng trên thực tế hoạt động khám xét phương tiện, tài liệu, dữ liệu điện tử vẫn được các cơ quan có thẩm quyền tiến hành. Tuy nhiên trước đây, việc phát hiện, thu giữ, quá trình phản ánh các thông tin có liên quan đến các đối tượng khám xét này và nhất là ra lệnh khám xét, tiến hành lập biên bản khám xét ở từng trường hợp cụ thể gặp nhiều khó khăn. Quy định mới này, tạo sự thông thoáng trong việc áp dụng quy định về khám xét trong tố tụng hình sự.
Hoạt động kiểm sát việc khám xét được thực hiện theo các quy định tại các Điều 192, 193, 194, 195, 196, 198 BLTTHS 2015, Điều 15 Luật Tổ chức VKSND năm 2015, Quy chế THQCT và KSĐT và các quy định pháp luật hiện hành. Theo đó, khi thực hiện kiểm sát việc khám xét, VKS cần đảm bảo. Chỉ khi có căn cứ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và có lệnh của người có thẩm quyền thì mới được tiến hành khám xét. Khi khám xét, phải bảo đảm các trình tự, thủ tục theo luật định và phải bảo đảm tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong trường hợp CQĐT tiến hành khám xét khẩn cấp, nếu thấy việc khám xét là không có căn cứ và không hợp pháp thì VKS yêu cầu CQĐT khắc phục ngay, đồng thời ra quyết định hủy bỏ kết quả khám xét.
2. Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án:
Hồ sơ điều tra vụ án hình sự là tập hợp toàn bộ những tài liệu, chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra vụ án theo quy định của BLTTHS, do Điều tra viên lập nhằm chứng minh hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có liên quan đến vụ án.
Thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT nhằm đảm bảo cho các tài liệu, chứng cứ được thu thập một cách kịp thời, khách quan, đầy đủ, đúng quy định của bộ luật tố tụng hình sự. Thực hiện hoạt động kiểm sát việc lập hồ sợ nhằm đảm bảo tính khách quan, đầy đủ, đúng đắn của các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án hình sự, đồng thời giúp cho việc bám sát quá trình điều tra, nắm vững hồ sơ vụ án ngay trong quá trình thu thập chứng cứ, kịp thời đưa ra các yêu cầu điều tra và đề xuất việc giải quyết một cách chính xác các vấn đề phát sinh trong quá trình kiểm sát điều tra vụ án bảo đảm việc điều tra vụ án được tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.
Khi kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải kiểm sát cả về trình tự, thủ tục tố tụng và nội dung của các tài liệu trong hồ sơ vụ án theo quy định của pháp luật, đặc biệt là tính toàn diện, khách quan của các tài liệu là chứng cứ xác định tội phạm trong vụ án. Những sai sót trong việc lập hồ sơ vụ án như vi phạm về trình tự, thủ tục, thêm, bớt, làm sai lệch hồ sơ, ... phải được phát hiện và yêu cầu CQĐT khắc phục kịp thời. Những cán bộ điều tra có sai phạm cần phải được xử lý nghiêm theo quy định pháp luật.
Bên cạnh đó, kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT cũng là một nhiệm vụ quan trọng của VKSND, nhằm đảm bảo cho các tài liệu, chứng cứ được thu thập một cách kịp thời, khách quan, đầy đủ, đúng quy định, từ đó mới có căn cứ chứng minh hành vi phạm tội, người phạm tội và các tình tiết liên quan đến vụ án. Đồng thời, kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án còn giúp kiểm sát viên bám sát quá trình điều tra vụ án, nắm vững hồ sơ, từ đó, kịp thời đề ra các yêu cầu điều tra cần thiết để giải quyết vụ án.
Thực tiễn cho thấy, khi hết thời hạn điều tra, thường xảy ra tình trạng CQĐT chuyển hồ sơ vụ án lên cho VKS và đề nghị truy tố những hồ sơ chưa hoàn thiện, đầy đủ về tài liệu chứng cứ như: chưa có trích lục tiền án, tiền sự của bị can; biên bản ghi lời khai, hỏi cung chưa có chữ ký của Điều tra viên; chưa có biên bản đánh giá chứng cứ giữa Điều tra viên và Kiểm sát viên; chưa điền đầy đủ thông tin vào các biên bản; thời hạn tạm giam vừa hết (trái với quy định chuyển trước 05 ngày)... Do vậy, khi kiểm sát việc lập hồ sơ, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ, đảm bảo tài liệu trong hồ sơ được đóng dấu bút lục của CQĐT kèm theo bảng kê đầy đủ các tài liệu.
3. Kiểm sát việc áp dụng thay đổi huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế:
Các biện pháp ngăn chặn là các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự tác động đến các quyền con người, quyền cơ bản của công dân, đặc biệt là các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam. Để hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng oan sai trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, BLTTHS 2015 quy định vai trò của VKSND trong việc quyết định áp dụng, thay đổi và hủy bỏ biện pháp ngăn chặn nhằm đảm bảo việc bắt, giữ, giam người có căn cứ, đúng pháp luật, góp phần bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân.
Điều 109 BLTTHS năm 2015 quy định các cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn gồm: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người (bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ), tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Nhằm hạn chế thấp nhất tình trạng giữ người, bắt người, tạm giữ, tạm giam, trong giai đoạn điều tra BLTTHS quy định vai trò quyết định trong việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn thuộc VKS nên việc bắt, giam, giữ, gia hạn tạm giữ, tạm giam bị can đều phải được VKS xem xét, phê chuẩn đối với từng trường hợp, bảo đảm việc bắt, giữ, giam người có căn cứ, đúng pháp luật.
Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, căn cứ vào kết quả điều tra, điều kiện và sự cần thiết của việc áp dụng, các biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng có thể được hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác. Để tránh việc tùy tiện trong việc hủy bỏ, thay thế biện pháp ngăn chặn, VKS cần phải kiểm sát chặt chẽ, nhất là những biện pháp do VKS phê chuẩn để đảm bảo việc hủy bỏ, thay thế các biện pháp ngăn chặn là cần thiết, có căn cứ và không ảnh hưởng đến hoạt động điều tra.
Kiểm sát hoạt động bắt, giữ người
Việc bắt, giữ người được quy định tại Điều 110, 111, 112, 113 BLTTHS năm 2015 gồm: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã và bắt bị can, bị cáo để tạm giam và bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
– Kiểm sát việc bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp: Đây là trường hợp mà pháp luật cho phép CQĐT bắt người trước, đề nghị VKS phê chuẩn sau. Do đó, hoạt động kiểm sát chỉ được thực hiện sau khi CQĐT đã thực hiện xong việc giữ người khẩn cấp. Khi thực hiện việc kiểm sát, Kiểm sát viên cần xem xét hồ sơ liên quan đến việc giữ người khẩn cấp để xét phê chuẩn. Theo quy định tại khoản 5 Điều 110 BLTTHS 2015, trong mọi trường hợp, việc giữ khẩn cấp phải được báo ngay cho VKS cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét
phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trường hợp VKS quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì người đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, CQĐT đã nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ [24].
– Kiểm sát bắt bị can, bị cáo để tạm giam: Khi CQĐT áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì lệnh bắt tạm giam phải được VKSND phê chuẩn trước khi thi hành. Để việc phê chuẩn chính xác, đúng pháp luật, VKS cần phải kiểm sát chặt chẽ tính có căn cứ và tính hợp pháp trong việc áp dụng biện pháp bắt này. Khi kiểm sát, cần chú ý đến điều khoản mà bị can bị khởi tố, để xem xét, theo quy định, có được phép bắt tạm giam hay không. VKS cần phải kiểm sát chặt chẽ về thẩm quyền áp dụng, đối tượng bị áp dụng, thời hạn áp dụng nhằm đảm bảo ngăn chặn khả năng xâm phạm đến các quyền nhân thân của công dân nhưng đồng thời không gây cản trở cho hoạt động điều tra của CQĐT.
Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giữ
Biện pháp tạm giữ là biện pháp ngăn chặn nhằm cách ly một người khỏi xã hội trong một thời gian nhất định để phục vụ cho quá trình điều tra, xác minh, do vậy ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do, thân thể của con người. Trách nhiệm của VKS phải bảo đảm không để xảy ra việc áp dụng biện pháp tạm giữ oan sai, người bị tạm giữ phải được an toàn.
Sau khi nhận được quyết định tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền, Kiểm sát viên phải kiểm tra tính có căn cứ của việc ra quyết định tạm giữ. Nếu xét thấy việc tạm giữ là không cần thiết hoặc không có căn cứ, Kiểm sát viên đề xuất Viện trưởng ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và yêu cầu cơ quan ra quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Trường hợp hết hạn tạm giữ mà vẫn chưa xác định được tội phạm, người phạm tội, xét cần có thêm thời gian để kiểm tra, xác minh, củng cố tài liệu, chứng cứ thì CQĐT phải làm văn bản gửi tới VKS cùng cấp xin gia hạn tạm giữ, nhận được văn bản xin gia hạn tạm giữ của CQĐT. Sau khi nghiên cứu, kiểm tra và đánh giá để xác định việc xin gia hạn tạm giữ của CQĐT có căn cứ và cần thiết hay không để báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn việc gia hạn tạm giữ. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị gia hạn tạm giữ, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì VKS phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam
Khi tiến hành kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam bị can để điều tra, VKS có trách nhiệm đảm bảo: Biện pháp tạm giam chỉ có thể được áp dụng đối với bị can phạm tội trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng; Bị can phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Tức là cơ quan VKS phải xác định tính có căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam. Ngoài ra để đảm bảo tính hợp pháp của việc tạm giam, xem xét thẩm quyền ra lệnh tạm giam. Do vậy, khi nhận được lệnh tạm giam bị can của CQĐT, KSV phải chủ động, khẩn trương nghiên cứu vụ án như: Xem xét các tài liệu, chứng cứ, đánh giá nhân thân của người phạm tội... so sánh đối chiếu với lệnh tạm giam, thời hạn tạm giam với các quy định của pháp luật để báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam của CQĐT. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan đến việc tạm giam, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. VKS phải hoàn trả hồ sơ cho CQĐT ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
Trường hợp hết hạn tạm giam mà vẫn chưa chứng minh được tội phạm, xét thấy cần có thêm thời gian để điều tra thì CQĐT làm văn bản gửi VKS xin gia hạn tạm giam. Nhận được văn bản của CQĐT, KSV phải nghiên cứu kiểm tra để xác
định việc gia hạn tạm giam có căn cứ và cần thiết không để phê chuẩn. Trong quá trình tạm giam để điều tra vụ án hình sự, VKS có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra, xem xét để phát hiện vi phạm pháp luật, nếu xét thấy việc tạm giam không còn cần thiết nữa thì yêu cầu CQĐT áp dụng biện pháp ngăn chặn khác hoặc trả lại tự do cho người bị tạm giam.
Kiểm sát việc áp dụng các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
Đây là các biện pháp ngăn chặn có tính cưỡng chế thấp hơn các biện pháp ngăn chặn nêu trên, vì vậy khi kiểm sát các hoạt động này của CQĐT, Kiểm sát viên cần chú ý đến tính có căn cứ của việc áp dụng, đồng thời xem xét việc áp dụng có gây ảnh hưởng gì cho hoạt động điều tra hay không. Khi áp dụng các biện pháp này, trong hồ sơ áp dụng thường có các giấy tờ, tài liệu thể hiện sự cam kết, bảo đảm sự tham gia tố tụng của bị can và cá nhân, tổ chức có trách nhiệm quản lý bị can tại ngoại. Do đó, Kiểm sát viên cần kiểm tra tính đầy đủ của các tài liệu này như giấy cam đoan của bị can, thông báo với chính quyền địa phương, biên bản bàn giao bị can cho chính quyền địa phương, đơn xin bảo lĩnh của người bảo lĩnh, ...
– Kiểm sát thời hạn điều tra, tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra
Hoạt động điều tra chỉ được tiến hành trong một thời hạn điều tra cụ thể cho từng loại tội phạm theo mức độ nghiêm trọng của tội phạm theo quy định tại Điều 172 BLTTHS 2015. Để kiểm sát tốt thời hạn điều tra, kiểm sát viên cần theo dõi tiến trình điều tra, kịp thời nhắc nhở Điều tra viên phải nhanh chóng tiến hành các biện pháp điều tra để đảm bảo về thời hạn. Khi nhận được đề nghị gia hạn điều tra, Kiểm sát viên cần nghiên cứu hồ sơ vụ án, đánh giá đúng tính chất, mức độ nghiêm trọng của vụ án và tính tích cực trong điều tra của CQĐT để đề nghị Lãnh đạo VKS có thẩm quyền gia hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 172 BLTTHS 2015.
Khi kiểm sát tạm đình chỉ điều tra, kiểm sát viên cần chú ý đến tính có căn cứ của quyết định. Đối với các trường hợp tạm đình chỉ do bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo, cần kiểm tra hồ sơ bệnh án để xác định chính xác nhằm tránh tình trạng lạm dụng để kéo dài vụ án. Đối với trường hợp tạm đình chỉ do không xác định được bị can đang ở đâu, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc truy nã của CQĐT, đảm bảo phải ban hành quyết định truy nã, sau đó mới được tạm đình chỉ điều tra. Đồng thời, theo dõi thường xuyên các trường hợp tạm đình chỉ để xem xét việc phục hồi khi các căn cứ tạm đình chỉ không còn nữa.
Kiểm sát đình chỉ điều tra: Để kiểm sát tốt việc đình chỉ điều tra của CQĐT, đòi hỏi VKS phải nghiên cứu kỹ hồ sơ và thận trọng kiểm tra căn cứ áp dụng để đình chỉ được quy định tại khoản 1 Điều 230 BLTTHS 2015. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra của CQĐT, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra là có căn cứ thì VKS phải trả lại hồ sơ vụ án cho CQĐT giải quyết theo thẩm quyền; nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra là không có căn cứ thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra của và yêu cầu CQĐT phục hổi điều tra; nếu thấy đủ căn cứ để truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố [24].
4. Kiểm sát hoạt động tham gia tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng:
Theo quy định của BLTTHS, người tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra gồm có: người bị tạm giữ, bị can, người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người giám định, … Khi tham gia tố tụng, họ phải thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể tại chương IV BLTTHS năm 2015. Khi người tham gia tố tụng có hành vi vi phạm pháp luật gây cản trở quá trình điều tra, giải quyết vụ án hình sự hoặc hành vi vi phạm pháp luật khác thì VKSND có quyền yêu cầu hoặc kiến nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh.
Có thể hiểu, hoạt động kiểm sát việc tham gia tố tụng là việc VKS kiểm sát việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng, mặt khác kiểm sát việc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng như: người bị tạm giữ có quyền biết lý do bị tạm giữ, có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa, được giải thích về quyền và nghĩa vụ, bị can có quyền biết mình bị khởi tố vì tội gì, .... Nhiệm vụ này được VKS thực hiện thông qua việc xét khiếu nại, tố cáo và giải quyết yêu cầu của người tham gia tố tụng; trực tiếp tiến hành hoặc có mặt để kiểm sát một số hoạt động điều tra; yêu cầu điều tra viên giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng trong các hoạt động điều tra; xem xét cấp giấy chứng nhận bào chữa... Bên cạnh đó, trong quá trình KSĐT, VKS thực hiện việc kiểm sát việc hỏi cung bị can, lấy lời khai người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; bảo đảm cho họ quyền đưa ra đồ vật, tài liệu và những yêu cầu của mình nhằm làm rõ vụ án. Quá trình giải quyết vụ án, khi thuộc trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại Điều 72 BLTTHS 2015, mà bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa, VKS yêu cầu cử cơ quan có thẩm quyền cử người bào chữa nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của họ.
5. Kiểm sát tính hợp pháp của các quyết định tố tụng mang tính chất giải quyết vụ án:
Việc ra quyết định khởi tố, tiến hành điều tra là việc xác định về mặt pháp lý một con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và được coi là tội phạm. Điều này sẽ trực tiếp hạn chế một số quyền và lợi ích hợp pháp thuộc về nhân thân của người bị khởi tố, điều tra. Do vậy, để nhằm hạn chế những vi phạm pháp luật của CQĐT trong việc tiến hành điều tra, bảo đảm việc điều tra có căn cứ, đúng người, đúng tội, VKS cần phải kiểm sát chặt chẽ các quyết định tố tụng trong giai đoạn điều tra của CQĐT. Để hoạt động kiểm sát điều tra được chặt chẽ đúng với quy định của pháp luật, trước hết VKS phải nghiên cứu, kiểm tra các văn bản, tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ điều tra của CQĐT, xem các tài liệu chứng cứ đó có khách quan, toàn diện, đầy đủ để xác định được người đó đã thực hiện hành vi phạm tội hay không?
Quá trình kiểm sát điều tra, VKSND căn cứ vào các quy định pháp luật để tiến hành kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của các quyết định, hành vi tố tụng của CQĐT như quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, quyết định tạm đình chỉ điều tra, lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh tạm giam, gia hạn tạm giữ,... Nếu các quyết định là có căn cứ và hợp pháp thì VKS sẽ ra quyết định phê chuẩn để thi hành và ngược lại nếu thấy các quyết định là không có căn cứ và không hợp pháp, VKS sẽ quyết định không phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định tố tụng trái pháp luật, đồng thời yêu cầu CQĐT và các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra chấm dứt ngay các hoạt động tố tụng. Từ đó, VKS tiến hành khắc phục trực tiếp những thiếu sót, yêu cầu khắc phục những vị phạm của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Kiểm tra tính hợp pháp của quyết định tố tụng là việc xem xét các vấn đề như thẩm quyền, về thời hạn, nội dung và hình thức đã đúng quy định pháp luật hay chưa,.... Nếu qua kiểm sát, thấy chưa rõ căn cứ hoặc có vi phạm thẩm quyền thì VKS yêu cầu các cơ quan ra quyết định đó có biện pháp khắc phục. Để kiểm sát tính hợp pháp đối với các quyết định của CQĐT, VKS phải sử dụng những quyền năng mà pháp luật cho phép như quyền yêu cầu CQĐT chuyển hồ sơ, tài liệu chứng cứ để thực hiện việc kiểm sát, quyền yêu cầu CQĐT khắc phục các vị phạm trong hoạt động điều tra một vụ án cụ thể, quyền kiến nghị CQĐT có biện pháp khắc phục, phòng ngừa đối tội phạm, ....
6. Giải quyết tranh chấp thẩm quyền điều tra:
Điều 163 BLTTHS 2015 quy định về thẩm quyền điều tra của các Cơ quan điều tra chuyên trách điều tra tội phạm – là cơ quan tiến hành tố tụng. Theo điều luật này thì CQĐT được tổ chức trong Công an nhân dân, trong Quân đội nhân dân và ở VKSND tối cao.
CQĐT trong Công an nhân dân gồm Cơ quan An ninh điều tra và Cơ quan Cảnh sát điều tra. Cơ quan An ninh điều tra được tổ chức ở cấp Trung ương và cấp tỉnh. Cơ quan Cảnh sát điều tra được tổ chức ở cấp Trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện.
Trong Quân đội nhân dân có CQĐT quân sự và CQĐT an ninh quân đội. CQĐT quân sự được tổ chức ở Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục, Quân khu, Quân đoàn, Quân chủng, Binh chủng, Binh đoàn, Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng và CQĐT hình sự khu vực. CQĐT An ninh quân đội được tổ chức ở Bộ Quốc phòng, ở Quân khu, Quân chủng, Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng.
CQĐT của VKSND tối cao bao gồm: Cục điều tra thuộc VZKSND tối cao và Phòng điều tra thuộc VKS quân sự Trung ương.
Thẩm quyền điều tra tội phạm không chỉ căn cứ vào loại CQĐT, căn cứ vào phân cấp trong từng loại mà còn phải căn cứ vào nơi xảy ra tội phạm. Quy định chung là CQĐT có thẩm quyền điều tra những vụ án xảy ra trên địa phận của mình. Trong trường hợp không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của CQĐT nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.
Khi có tranh chấp về thẩm quyền điều tra thì VKS có trách nhiệm giải quyết theo quy định như sau:
Tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa các CQĐT cùng cấp do Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp giải quyết. Tranh chấp thẩm quyền điều tra của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra do VKS có thẩm quyền giải quyết;
Tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa các CQĐT cấp tỉnh, giữa các CQĐT quân sự cấp quân khu do Viện trưởng VKSND tối cao, Viện trưởng VKS quân sự trung ương giải quyết. Tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa các CQĐT cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, giữa các cơ quan điều tra quân sự khu vực thuộc các quân khu khác nhau do Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, Viện trưởng VKS quân sự cấp quân khu nơi đầu tiên phát hiện tội phạm giải quyết;
Tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa CQĐT của Công an nhân dân, CQĐT trong Quân đội nhân dân và CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện trưởng VKSND tối cao giải quyết.
Trong trường hợp cần thiết, VKS đề nghị CQĐT có thẩm quyền yêu cầu cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển ngay hồ sơ vụ án để trực tiếp điều tra. Các yêu cầu của CQĐT có giá trị bắt buộc thi hành đối với các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.