Quyền được chăm sóc sức khỏe là gì? Quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe là một quyền con người cơ bản? Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền sống, quyền được bảo đảm tính mạng, sức khỏe, thân thể?
Con người từ khi sinh ra đều sẽ có những quyền con người cơ bản. Các quyền này có những vai trò và đóng góp những ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi người. Một trong số đó chúng ta sẽ cần phải kể đến quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe. Chắc hẳn hiện nay vẫn còn nhiều người chưa hiểu rõ về quyền này.
Mục lục bài viết
1. Quyền được chăm sóc sức khỏe là gì?
Quyền được chăm sóc sức khỏe thực chất chính là một trong những quyền con người cơ bản.
Trên thực tế thì quyền được chăm sóc sức khỏe được hiểu là: Quyền được chăm sóc sức khỏe không có nghĩa là quyền được khỏe mạnh, hay là các chính phủ nghèo phải thiết lập các dịch vụ y tế đắt tiền mà họ không có nguồn lực hỗ trợ. Nhưng quyền được chăm sóc sức khỏe yêu cầu chính phủ, và các cơ quan có thẩm quyền thực hiện các chính sách và chương trình hành động nhằm tạo ra các dịch vụ y tế sẵn có và mọi người có thể tiếp cận được trong thời gian ngắn nhất có thể.
Để nhằm mục đích có thể đảm bảo rằng có thể thực hiện được điều này là một thách thức cho cả cộng đồng quyền con người và các chuyên viên y tế.
2. Quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe là một quyền con người cơ bản:
Dựa trên Điều 12 ICESCR, Ủy ban về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đã giải thích một cách khá toàn diện và chi tiết về quyền được chăm sóc sức khoẻ và chúng ta sẽ có thể tóm tắt những điểm quan trọng về quyền được chăm sóc sức khoẻ như sau:
– Thứ nhất, chăm sóc sức khoẻ được biết đến chính là một quyền con người cơ bản, không thể thiếu để thực hiện các quyền khác. Mọi người có quyền được hưởng tiêu chuẩn chăm súc sức khoẻ cao nhất có thể đạt được để sống một cuộc sống có nhân phẩm. Hiện thực hóa quyền được chăm súc sức khoẻ có thể được thực hiện thông qua nhiều cách tiếp cận bổ trợ nhau, chẳng hạn như xây dựng chính sách y tế, hoặc thực hiện các chương trình y tế do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) triển khai, hoặc ban hành những văn bản pháp luật cụ thể.
– Thứ hai, quyền được chăm súc sức khoẻ có mối liên quan mật thiết với và phụ thuộc vào việc hiện thực hoá các quyền con người khác, bao gồm các quyền sống, quyền về lương thực, nhà ở, việc làm, giáo dục, nhân phẩm, bình đẳng, không phân biệt đối xử, cấm tra tấn, bảo vệ đời tư, tiếp cận thông tin, và các quyền tự do lập hội, hội họp, đi lại. Những quyền và tự do này là những yếu tố hợp thành của quyền được chăm sóc sức khoẻ.
– Thứ ba, Điều 12 ICSCR không bao gồm định nghĩa về sức khoẻ, tuy nhiên có thể liên hệ đến định nghĩa được nêu trong lời nói đầu của Điều lệ của WHO, theo đó sức khoẻ được xác định cụ thể là “trạng thái thỏa mái về điều kiện thể chất, tinh thần và xã hội, không chỉ thuần tuý là không có bệnh tật hay không ổn định”.
– Thứ tư, quyền được chăm sóc sức khoẻ không chỉ được hiểu như là một quyền được khoẻ mạnh mà bao gồm các tự do và quyền khác, ví dụ như tự do trong việc làm chủ về sức khoẻ và thân thể, kể cả về tình dục và sinh sản, tự do không bị can thiệp, chẳng hạn không bị tra tấn, điều trị và thí nghiệm y tế mà không được sự đồng ý; quyền bình đẳng về cơ hội trong việc chăm sóc sức khỏe…
– Thứ năm, thuật ngữ “tiêu chuẩn sức khoẻ cao nhất có thể đạt được” trong Điều 12 ICSCR đã đề cập đến những tiền đề sinh học và kinh tế – xã hội của từng cá nhân và nguồn lực sẵn có của một quốc gia thành viên. Cũng có rất nhiều khía cạnh không thể được giải quyết chỉ trong phạm vi mối quan hệ giữa nhà nước với cá nhân. Chỉ riêng các nhà nước không thể bảo đảm sức khoẻ tốt cho mọi công dân, cũng như không thể loại trừ mọi nguy cơ với sức khoẻ của mọi công dân. Những yếu tố cụ thể như gen di truyền, tính nhạy cảm của cá nhân với tình hình sức khoẻ của bản thân, lối sống và điều kiện sống đúng vai trò quan trọng đối với sức khoẻ của mỗi cá nhân. Cũng chính bởi vì vậy, quyền được chăm sức sức khoẻ được hiểu là quyền được thụ hưởng những cơ sở vật chất, hàng hóa, dịch vụ và điều kiện cần thiết để đạt được tiêu chuẩn sức khoẻ cao nhất có thể.
– Thứ sáu, quyền được chăm sóc sức khoẻ phụ thuộc vào những yếu tố cơ bản là:
+ Quyền được chăm sóc sức khoẻ phụ thuộc vào khả năng sẵn có về cơ sở chăm sóc sức khoẻ và y tế công, các loại hàng hoá và dịch vụ, cũng như các chương trình chăm sóc sức khỏe của quốc gia.
+ Quyền được chăm sóc sức khoẻ phụ thuộc vào khả năng có thể tiếp cận của mọi người với các cơ sở chăm sóc sức khỏe, hàng hoá và dịch vụ y tế.
– Thứ bảy, quyền được chăm sóc sức khoẻ, giống như tất cả các quyền con người cơ bản khác, đặt ra ba cấp độ nghĩa vụ đối với các quốc gia thành viên: cụ thể đó chính là các nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thực hiện.
3. Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền sống, quyền được bảo đảm tính mạng, sức khỏe, thân thể:
Theo Điều 19 Hiến pháp năm 2013 quy định nội dung sau đây:
“Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.”
Theo Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định nội dung sau đây:
– Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
– Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định.
– Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm.
Theo Điều 33
– Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.
– Khi phát hiện người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa thì người phát hiện có trách nhiệm hoặc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có điều kiện cần thiết đưa ngay đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi gần nhất; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có trách nhiệm thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh.
– Việc gây mê, mổ, cắt bỏ, cấy ghép mô, bộ phận cơ thể người; thực hiện kỹ thuật, phương pháp khám, chữa bệnh mới trên cơ thể người; thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất cứ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải được sự đồng ý của người đó và phải được tổ chức có thẩm quyền thực hiện.
Trong trường hợp người được thử nghiệm là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc là bệnh nhân bất tỉnh thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con thành niên hoặc người giám hộ của người đó đồng ý; trường hợp có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của bệnh nhân mà không chờ được ý kiến của những người nêu trên thì phải có quyết định của người có thẩm quyền của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
– Việc khám nghiệm tử thi được thực hiện khi thuộc một trong các trường hợp cụ thể được nêu sau đây:
+ Có sự đồng ý của người đó trước khi chết.
+ Có sự đồng ý của cha, mẹ, vợ, chồng, con thành niên hoặc người giám hộ nếu không có ý kiến của người đó trước khi chết.
+ Theo quyết định của người đứng đầu cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp luật quy định.
Theo Điều 132
– Chủ thể là người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đế
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
+ Người không cứu giúp là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm.
+ Người không cứu giúp là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp có nghĩa vụ phải cứu giúp.
– Phạm tội dẫn đến hậu quả 02 người trở lên chết, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
– Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.