Quyền của người bào chữa là nghĩa vụ pháp lý của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng khác, buộc các chủ thể này phải thực hiện nhằm đáp ứng quyền của người bào chữa.
Địa vị pháp lý của người bào chữa (NBC) được hiểu là tổng thể các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật qui định, cho phép NBC có thể sử dụng để thực hiện chức năng của mình. Tương ứng với quyền của NBC là nghĩa vụ pháp lý của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng khác, buộc các chủ thể này phải thực hiện nhằm đáp ứng quyền của NBC. Thông qua các quyền được pháp luật qui định, địa vị pháp lý của NBC càng được khẳng định trong từng giai đoạn tố tụng, thể hiện như sau:
Mục lục bài viết
- 1 1. Quyền gặp, hỏi người bị buộc tội:
- 2 2. Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ và hỏi cung bị can:
- 3 3. Quyền có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác:
- 4 4. Quyền được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác:
- 5 5. Quyền xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa:
- 6 6. Quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế:
- 7 7. Quyền đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng:
- 8 8. Quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu:
- 9 9. Quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá:
- 10 10. Quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chúng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản:
- 11 11. Quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra:
- 12 12. Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa
- 13 13. Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng:
- 14 14. Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất:
1. Quyền gặp, hỏi người bị buộc tội:
Theo qui định tại điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015, “Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”.
Nếu như BLTTHS năm 2003 quy định NBC tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ [26, Điều 58] thì Điều 74 BLTTHS năm 2015 qui định thời điểm NBC tham gia tố tụng là “từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành 1 số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ”. Việc qui định như trên đã tránh sự lạm quyền từ phía CQĐT khiến việc bắt, tạm giữ không cần thiết và giúp cho NBC được tiếp xúc với vụ án ngay từ đầu, sẽ thuận lợi cho người bào chữa trong việc thu thập chứng cứ gỡ tội và những tình tiết giảm nhẹ cho bị can, để có thể bào chữa cho bị can ở gian đoạn sau của quá trình TTHS.
Việc gặp người bị bắt, NBTG, bị can, bị cáo đang bị tạm giam được qui định cụ thể tại Điều 80 BLTTHS năm 2015. Theo đó, để có thể gặp được người bị bắt, NBTG, bị can, bị cáo đang bị tạm giam, NBC phải xuất trình văn bản
2. Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ và hỏi cung bị can:
Nếu như BLTTHS năm 2003 qui định NBC có quyền có mặt khi lấy lời khai của NBTG, khi hỏi cung bị can, thì thời điểm NBC được tham gia vào quá trình lấy lời khai theo qui định của BLTTHS năm 2015 được qui định sớm hơn, đó là khi lấy lời khai của người bị bắt. Sự có mặt của NBC trong quá trình này sẽ giúp người bị bắt, NBTG, bị can có tâm lý yên tâm hơn khi khai báo với người THTT. Việc có mặt của NBC cũng giám sát hoạt động của người THTT, giúp người THTT thận trọng hơn trong việc tuân thủ pháp luật, tôn trọng sự thật khách quan của vụ án, tránh tình trạng Điều tra viên, Kiểm sát viên ép cung, bức cung, mớm cung, dùng nhục hình đối với NBBT để làm sai lệch kết quả điều tra. Bên cạnh đó, NBC theo dõi được quá trình điều tra ngay từ đầu và nắm được tình hình chứng cứ. Nó có ý nghĩa rất lớn trong việc chuẩn bị bài bào chữa và tham gia tranh tụng của họ ở những giai đoạn tố tụng tiếp theo của vụ án.
Theo đó khi được Điều tra viên đồng ý cho NBC hỏi NBBT thì những câu hỏi của NBC và câu trả lời của NBBT sẽ được ghi vào biên bản lấy lời khai người bị bắt, NBTG, biên bản hỏi cung bị can, tuy nhiên việc hỏi của NBC đối với NBBT vẫn phải được Điều tra viên đồng ý, khiến cho NBC thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NBBT cũng phần nào bị hạn chế khi Điều tra viên thấy rằng những câu hỏi của NBC có thể gây bất lợi cho hoạt động “buộc tội” của các CQTHTT.
Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì NBC có thể hỏi người bị bắt, NBTG, bị can. Đây là điểm mới của BLTTHS năm 2015 tạo điều kiện cho NBC được hỏi thân chủ mình. Qua đó có điều kiện làm rõ các tình tiết có lợi cho người bị buộc tội, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
3. Quyền có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác:
BLTTHS năm 2015 qui định cho NBC được có mặt trong các hoạt động điều tra theo qui định, bao gồm:
+ Đối chất là biện pháp điều tra được qui định tại Điều 189 BLTTHS năm 2015, theo đó, Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên cho hai hay nhiều người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự đã được khởi tố, cùng một lúc tham gia tranh luận và chất vấn lẫn nhau dưới sự hướng dẫn trực tiếp của người tiến hành tố tụng nhằm làm rõ những tình tiết mâu thuẫn trong lời khai trước đó của họ.
+ Nhận dạng là quá trình để người nhận dạng nhớ lại, nhận lại đối tượng mà trước đây họ đã tri giác và ghi nhớ trong trí nhớ khi đối tượng đó xuất hiện trở lại. Mục đích của việc nhận dạng là xác định sự tương đồng hay sự khác biệt giữa đối tượng nhận dạng thực tại với đối tượng mà người nhận dạng đã tri giác trước đây. Nhờ tiến hành nhận dạng Điều tra viên có thể thu thập, kiểm tra, củng cố nhiều tài liệu chứng cứ khác nhau để chứng minh các tình tiết của vụ án và làm cơ sở để xây dựng giả thuyết điều tra.Sự cần thiết để tiến hành hoạt động nhận dạng được xác định dựa vào nhiệm vụ của hoạt động điều tra và những vấn đề cần chứng minh trong vụ án. Đây là biện pháp điều tra do Điều tra viên thực hiện theo trình tự, thủ tục qui định tại Điều 190 BLTTHS năm 2015.
+ Nhận biết giọng nói là một biện pháp điều tra mới, lần đầu được qui định tại Điều 191 BLTTHS năm 2015. Con người có những đặc điểm nhất định giúp phân biệt giữa người này với người khác như dấu vân tay, vẫn chân…, giọng nói cũng là một trong số những đặc điểm đó. Khi cần thiết, Điều tra viên có thể cho bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, NBTG, bị can thực hiện hoạt động nhận biết giọng nói. Việc bổ sung nhận biết giọng nói là một biện pháp điều tra trong TTHS là phù hợp và cần thiết nhằm đa dạng hóa các biện pháp điều tra, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ, chứng minh tội phạm của CQTHTT.
+ Các hoạt động điều tra khác: NBC có thể tham gia vào các hoạt động điều tra khác như Thực nghiệm điều tra, khám nghiệm hiện trường… Khi tham gia các hoạt động này, NBC có điều kiện thu thập thêm một số tình tiết gỡ tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho bị can, góp phần vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án trong quá trình điều tra.
BLTTHS cho phép NBC có mặt trong các hoạt động điều tra, tuy nhiên lại không qui định họ được phát biểu ý kiến, quan điểm riêng của mình và ghi nhận những ý kiến, quan điểm riêng đó vào các biên bản tố tụng khi tham gia các hoạt động điều tra trên. Trên thực tế, NBC cũng rất ít khi được tham gia các hoạt động này do người THTT từ chối sự có mặt của họ, mặc dù sự có mặt của họ là hết sức cần thiết.
4. Quyền được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác:
Nếu như BLTTHS năm 2003 chỉ qui định NBC có quyền “Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can” [26, Điều 58] mà không qui định trách nhiệm của CQĐT trong việc thông báo thì BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quyền “được báo trước” cho NBC. Bên cạnh đó, ngoài việc được báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can như BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 còn qui định cho NBC có quyền được báo trước về thời gian và địa điểm lấy lời khai và tiến hành các hoạt động điều tra khác theo qui định. Qui định này giúp NBC lên được kế hoạch công tác, chủ động tham gia vào các hoạt động điều tra. Theo qui định tại Thông tư 46/2014/TT-BCA qui định:
Cơ quan đang thụ lý vụ án, vụ việc phải báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành tố tụng mà người bào chữa… có quyền tham gia tối thiểu 24 giờ đối với trường hợp người bào chữa… cư trú cùng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với cơ quan đang thụ lý vụ án, vụ việc, 48 giờ đối với trường hợp người bào chữa… cư trú khác tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với cơ quan đang thụ lý vụ án, vụ việc trước ngày tiến hành hoạt động tố tụng [Điều 11, Khoản 1].
Mặc dù BLTTHS năm 2015 và Thông tư 46/2014/TT-BCA qui định về việc NBC được báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định nhưng lại không qui định về cách thức thông báo. Vì vậy có một số trường hợp CQĐT chỉ thông báo bằng điện thoại cho NBC hoặc các CQTHTT “đổ lỗi cho các lý do khách quan khác như bưu điện gửi chậm, địa chỉ NBC bị nhầm lẫn… dẫn đến NBC không kịp đến để tham gia các hoạt động tố tụng, làm hạn chế việc thu thập chứng cứ cho NBTG, bị can, ảnh hưởng đến các quyền khác của NBC.
5. Quyền xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa:
Để tạo điều kiện cho NBC trong việc thu thập chứng cứ phục vụ việc bào chữa của mình, BLTTHS năm 2015 qui định cho NBC được xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa. Quyền năng pháp lý này của NBC lần đầu được ghi nhận tại BLTTHS năm 2003 và tiếp tục được qui định tại BLTTHS năm 2015. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, có nhiều hoạt động tố tụng có sự tham gia của NBC như lấy lời khai người bị bắt, NBTG, hỏi cung bị can, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói,…những hoạt động này đều phải được lập thành biên bản tố tụng theo qui định tại Điều 133 BLTTHS năm 2015. Việc NBC được quyền xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa sẽ giúp NBC nắm được các tình tiết liên quan đến quá trình điều tra vụ án. Đồng thời người THTT sẽ phải thận trọng hơn và tuân thủ pháp luật hơn khi tiến hành các hoạt động điều tra này. Thông qua việc xem các biên bản về hoạt động tố tụng, các quyết định tố tụng liên quan đến người mình bào chữa, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật, NBC có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền.
6. Quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế:
Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, khi thấy có các căn cứ qui định tại Điều 49 BLTTHS năm 2015 về các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, khoản 1 Điều 51 về thay đổi Điều tra viên, cán bộ điều tra, khoản 1 Điều 52 về thay đổi Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; khoản 1 Điều 53 về thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm; khoản 1 Điều 54 về thay đổi Thư ký Tòa án; khoản 5 Điều 68 về thay đổi Người giám định; khoản 5 Điều 69 về thay đổi Người định giá tài sản; khoản 4 Điều 70 về thay đổi Người phiên dịch, người dịch thuật và nhận thấy người tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa, NBC có quyền đề nghị thay đổi. Việc qui định không chỉ có bị can, bị cáo có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng mà còn có NBC đã thể hiện tính dân chủ trong TTHS Việt Nam. Nó tạo điều kiện đảm bảo sự vô tư, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội được tôn trọng và không bị xâm phạm.
Ngoài ra, NBC còn có quyền đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người bị buộc tội. Đây là quyền năng pháp lý của NBC lần đầu được ghi nhận trong BLTTHS năm 2015. Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là các biện pháp cưỡng chế nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng theo trình tự, thủ tục luật định khi có căn cứ xác định người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để đảm bảo thi hành án. Theo Điều 109 BLTTHS 2015, các biện pháp ngăn chặn gồm có: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh; trong đó biện pháp bắt gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ. Khi nhận thấy biện pháp ngăn chặn đang áp dụng đối với bị can, bị cáo không còn cần thiết, hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác, NBC có quyền đề nghị CQTHTT thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đang áp dụng đối với bị can, bị cáo.
Để bảo đảm hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được tiến hành thuận lợi, ngoài việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong phạm vi thẩm quyền của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế, bao gồm: áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản. Trong trường hợp biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với thân chủ của mình không còn cần thiết nữa, NBC có quyền đề nghị CQTHTT hủy bỏ đó.
7. Quyền đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng:
BLTTHS năm 2015 lần đầu ghi nhận quyền năng pháp lý này của NBC. Theo đó, nếu xét thấy cần thiết để làm rõ nội dung vụ án, thu thập những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ cho thân chủ của mình, NBC có quyền đề nghị tiến hành một số hoạt động tố tụng theo qui định, đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đến phiên tòa. Tuy nhiên, Luật chỉ qui định NBC có quyền “đề nghị” mà không qui định người THTT phải có trách nhiệm như thế nào đối với đề nghị của NBC, cũng như không qui định cụ thể về các trường hợp chấp nhận hay không chấp nhận, thủ tục sau khi chấp nhận hay không chấp nhận ra sao, dẫn đến việc NBC rất khó thực hiện quyền năng này trên thực tế do người THTT từ chối đề nghị của NBC.
8. Quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu:
Đây cũng là một quyền năng mới, lần đầu được ghi nhận trong BLTTHS năm 2015. Quyền thu thập chứng cứ của NBC còn được qui định tại khoản 2 Điều 88 BLTTHS năm 2015. Theo đó, để thu thập chứng cứ, NBC có quyền “gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa”. Thực tiễn TTHS tại Việt Nam cho thấy, với trách nhiệm chứng minh tội phạm, CQTHTT thường quan tâm nhiều hơn đến những chứng cứ buộc tội người bị bắt, NBTG, bị can, bị cáo, dẫn đến việc xem nhẹ những chứng cứ gỡ tội. Việc BLTTHS qui định cho NBC có quyền thu thập những tài liệu, chứng cứ theo hướng có lợi cho thân chủ của họ giúp tạo nên “thế cân bằng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đảm bảo quyền cho người được bào chữa. Quyền năng này cũng đảm bảo cho các quyền năng khác của NBC như gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; quyền đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa…Tuy nhiên, cũng giống như BLTTHS năm 2003 chỉ qui định về quyền của NBC, BLTTHS năm 2015 cũng chưa qui định cụ thể về trình tự thu thập chứng cứ của NBC. Mặc dù Luật qui định CQĐT, Điều tra viên phải tạo điều kiện thuận lợi để NBC thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ NBTG, bị can, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của NBTG, bị can nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác, tuy nhiên trên thực tế, việc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa không phải việc dễ dàng. Bởi lẽ Luật chỉ qui định NBC có quyền “đề nghị” chứ không qui định trách nhiệm hoặc chế tài xử phạt trong trường hợp các cơ quan, tổ chức, cá nhân không hợp tác cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa cho NBC.
Theo qui định tại Điều 9
Một vấn đề nữa liên quan đến quyền thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật của NBC, đó là trong quá trình thu thập những chứng cứ, tài liệu chứng minh sự vô tội hoặc các tình tiết giảm nhẹ TNHS cho bị can, bị cáo, NBC lại thu thập được những tình tiết có thể làm tăng nặng TNHS cho bị can, bị cáo. Trong trường hợp này, NBC có bắt buộc phải đưa ra những chứng cứ tài liệu này hay không, và nếu NBC không đưa những tài liệu chứng cứ đó ra thì có vị phạm và bị xử lý theo pháp luật hay không. Điều này cũng không được pháp luật qui định cụ thể.
Để đảm bảo cho quyền yêu cầu của NBC, BLTTHS năm 2015 đã qui định cụ thể về việc giải quyết yêu cầu, đề nghị tại Điều 175. Theo đó, khi NBC đưa ra yêu cầu đối với CKTHTT về những vấn đề liên quan đến vụ án thì CQĐT, Viện kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm của mình phải giải quyết yêu cầu, đề nghị đó của NBC và thông báo cho họ biết kết quả. Trường hợp không chấp nhận yêu cầu, đề nghị thì CQĐT hoặc Viện kiểm sát phải trả lời và nêu rõ lý do.
9. Quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá:
Đây là qui định mới của BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003. Để có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội, NBC phải được tiếp cận với những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến người bị buộc tội, để từ đó đưa ra những nhận định và phương hướng bào chữa cho thân chủ của mình ở những giai đoạn tố tụng tiếp theo. Khi tiếp cận với chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan, NBC có quyền kiểm tra tính khách quan của chứng cứ, xem chứng cứ được sử dụng có phải là tài liệu, sự kiện có thật, phản ánh trung thực những tình tiết của vụ án đã xảy ra hay không, có bị
xuyên tạc, bóp méo theo ý chí chủ quan của con người hay không, chứng cứ có mối liên hệ khách quan với những sự kiện cần phải chứng minh trong vụ án hình sự hay không, chứng cứ có được thu thập theo đúng quy định của BLTTHS hay không. Nếu phát hiện những chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã thu thập không đảm bảo tính khách quan, tính liên quan hoặc tính hợp pháp của chứng cứ thì NBC có quyền trình bày ý kiến của mình và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá lại.
Về nguyên tắc, việc đánh giá chứng cứ của NBC là bình đẳng so với Điều tra viên và Kiểm sát viên, được ghi nhận tại Điều 26 BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên, trên thực tiễn, việc kiểm tra, đánh giá, trình bày ý kiến của NBC về chứng cứ thường gặp nhiều khó khăn. Do Luật chỉ qui định quyền cho NBC, tuy nhiên lại không qui định trình tự thủ tục kiểm tra, đánh giá, trình bày ý kiến của NBC về chứng cứ liên quan. Những đánh giá, ý kiến của NBC có được ghi nhận thành văn bản đưa vào hồ sơ vụ án và có giá trị pháp lý hay không. Bên cạnh đó, Luật cũng không qui định cụ thể thế nào là “chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan”, dẫn đến việc nhận thức khác nhau và áp dụng trong thực tiễn không được thống nhất.
10. Quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chúng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản:
Trong trường hợp NBC biết về những chứng cứ liên quan đến vụ án mà CQTHTT không biết hoặc NBC nhận thấy CQTHTT thu thập không đầy đủ chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người được bào chữa, NBC có quyền yêu cầu COTHTT thu thập chứng cứ đó và đưa vào hồ sơ vụ án theo đúng trình tự, thủ tục luật định. Đây cũng là qui định mới của BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003. Việc qui định như trên đã tạo điều kiện để NBC thực hiện việc bào chữa của mình, bởi, chỉ khi chứng cứ được thu thập một cách đầy đủ và khách quan thì việc giải quyết vụ án mới được chính xác, quyền hợp pháp của người bị buộc tội mới được đảm bảo tuyệt đối, tránh xảy ra oan sai. Đồng thời, nó cũng giúp CQTHTT biết, thu thập và đánh giá chứng cứ một cách toàn diện, tránh việc hồ sơ phải trả để điều tra bổ sung hoặc bị hủy án vì thiếu chứng cứ.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nhiều trường hợp để có thể kết luận việc có tội hay không có tội, quyết định tội danh của người phạm tội, điều khoản áp dụng hay những vấn đề khác của vụ án, CQTHTT cần thiết phải tiến hành trưng cầu giám định hoặc yêu cầu định giá tài sản. Kết luận giám định và kết luận định giá tài sản sẽ là căn cứ quan trọng để giải quyết chính xác vụ án. Khi thấy kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ về nội dung hay phát sinh vấn đề mới cần phải giám định liên quan đến tình tiết của vụ án đã có kết luận giám định trước đó, hoặc khi có nghi ngờ về kết luận giám định, kết luận định giá, NBC có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản. Tuy nhiên việc thực hiện quyền này trên thực tế hết sức khó khăn, bởi việc nghi ngờ về kết luận giám định, kết luận định giá tài sản ban đầu không chính xác mang cảm tính chủ quan của người đánh giá. Do vậy các CQTHTT thường không chấp nhận yêu cầu này của NBC, trừ khi NBC đưa ra được chứng cứ chứng minh được nghi ngờ của họ là có căn cứ.
11. Quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra:
Quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra được ghi nhận từ BLTTHS năm 2003 và tiếp tục được qui định tại BLTTHS năm 2015. Việc đọc, ghi chép và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa chỉ được phép thực hiện khi kết thúc điều tra, tức là khi CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra quyết định đình chỉ điều tra. Ghi nhận quyền trên của NBC có ý nghĩa hết sức quan trọng. Thứ nhất, nó giúp NBC nắm bắt được những tình tiết, diễn biến của vụ án, biết bị can bị đề nghị truy tố về tội danh gì, dựa trên những căn cứ buộc tội nào, những chứng cứ buộc tội và gỡ tội của bị can… để từ đó có sự chuẩn bị cho việc tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Thứ hai, nó giúp NBC có thể phát hiện những thiếu sót, hạn chế hoặc vi phạm tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, trên cơ sở đó đưa ra yêu cầu, khiếu nại cần thiết đối với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Điều 82 BLTTHS năm 2015 qui định sau khi kết thúc điều tra, nếu NBC có yêu cầu đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến người họ bào chữa thì CQTHTT có trách nhiệm bố trí thời gian, địa điểm để NBC đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án. Theo đó, Điều tra viên, Kiểm sát viên phải tập trung những tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa lại thành một tập hồ sơ; trường hợp NBC đọc, ghi chép những tài liệu này, Điều tra viên, Kiểm sát viên bố trí cho NBC đọc, ghi chép tại phòng làm việc thuộc trụ sở CQĐT, Viện kiểm sát. Trong quá trình NBC đọc, ghi chép tài liệu, Điều tra viên, Kiểm sát viên phải giám sát chặt chẽ, không để NBC tẩy xoá, sửa chữa, làm hư hỏng, rách, thay đổi, đánh tráo hoặc lấy mất tài liệu. Trường hợp NBC đề nghị sao chụp những tài liệu này, Điều tra viên, Kiểm sát viên trực tiếp sao chụp bằng máy photocopy tài liệu đưa cho NBC. Việc đọc, ghi chép hoặc sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa của người bào chữa phải được lập biên bản ghi nhận, tài liệu giao cho NBC phải có bản thống kê các tài liệu kèm theo. Sau khi đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu, NBC phải bàn giao nguyên trạng hồ sơ vụ án cho cơ quan đã cung cấp hồ sơ. Nếu để mất, thất lạc, hư hỏng tài liệu, hồ sơ vụ án thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật.
12. Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa
Có thể nói, vai trò của NBC được thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa, bởi lẽ Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền tuyên một người là có tội và áp dụng hình phạt đối với họ, nên việc xác định các chứng cứ, tài liệu tại phiên tòa mang giá trị pháp lý cao nhất để HĐXX ra phán quyết đối với bị cáo. Việc qui định quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa của NBC là điều kiện tốt nhất để NBC thực hiện quyền bào chữa của mình.
Theo qui định tại Điều 307 BLTTHS năm 2015 về trình tự xét hỏi: “Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi”. Như vậy, tại phiên tòa, NBC có quyền hỏi sau Chủ tọa, Thẩm phán, Hội thẩm và Kiểm sát viên. NBC có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có những câu trả lời theo những hướng có lợi cho bị cáo. Qua đó, NBC đề nghị Hội đồng xét xử lưu ý những lời khai có lợi cho bị cáo mà hồ sơ chưa phản ánh hoặc phản ánh chưa đầy đủ.
Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày luận tội, NBC phải lắng nghe, xem xét ý kiến liên quan tới việc phạm tội của bị cáo. Trên cơ sở đó, NBC phải phân tích, lập luận, đưa ra những lý lẽ để phát biểu lời bào chữa của mình và bác bỏ lời buộc tội bị cáo tại phiên tòa.
Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của NBC tại phiên tòa. Chủ toạ phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho NBC tranh luận với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác, đồng thời phải yêu cầu Kiểm sát viên đáp lại những ý kiến của NBC chưa được kiểm sát viên tranh luận.Khi tiến hành nghị án, HĐXX chỉ được căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác [30, Điều 326].
Đây là sự cụ thể hóa nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử được qui định tại Điều 26 BLTTHS năm 2015: “Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án”. Nó còn thể hiện sự bình đẳng, dân chủ của NBC trước CQTHTT, phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đề ra. Đồng thời tạo điều kiện cho NBC tham gia vào quá trình giám sát hoạt động của HĐXX, Kiểm sát viên và phần nào giúp HĐXX thực hiện việc xét hỏi đúng hướng, từ đó ra các quyết định đúng pháp luật, đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.
13. Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng:
Quyền khiếu nại, quyết định hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là sự cụ thể hóa nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS được qui định tại Điều 32 BLTTHS năm 2015. Theo đó, trong quá trình giải quyết vụ án, nếu phát hiện cơ quan, người THTT có hành vi, quyết định vi phạm pháp luật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội thì NBC có quyền khiếu nại những quyết định, hành vi tố tụng đó. Điều 470 BLTTHS năm 2015 qui định các quyết định tố tụng có thể bị khiếu nại là các quyết định của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra được ban hành theo quy định; còn hành vi tố tụng có thể bị khiếu nại là hành vi được thực hiện trong hoạt động tố tụng của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Thẩm tra viên, vàngười được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định. NBC có thể khiếu nại tất cả các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người THTT có liên quan đến thân chủ của họ, ví dụ như khiếu nại việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, khiếu nại về thời hạn tạm giữ, tạm giam, khiếu nại liên quan đến vấn đề giám định, định giá như phương pháp giám định, định giá không phù hợp, không khách quan dẫn đến kết luận giám định, kết luận định giá không chính xác, khiếu nại các hành vi cản trở NBC thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong các giai đoạn giải quyết vụ án hình sự.
14. Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất:
Quyền năng pháp lý trên của NBC cũng được qui định tại khoản 2 Điều 331 BLTTHS năm 2015: “Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa”. Theo đó, Luật qui định không phải tất cả các trường hợp NBC đều có quyền kháng cáo, mà chỉ đặt ra quyền đó của NBC trong trường hợp đối tượng bào chữa là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Sở dĩ qui định NBC có quyền kháng cáo trong những trường hợp này bởi những đối tượng được bào chữa trên chưa đủ khả năng nhận thức hoặc hạn chế về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, bên cạnh đó trình độ, kiến thức, kinh nghiệm pháp lý còn hạn chế. Vì vậy, sự đánh giá bản án, quyết định tuyến với mình có phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của mình hay không. Có thể thấy đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không phụ thuộc ý chí của bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị cáo. Việc quy định quyền kháng cáo cho người bào chữa không loại trừ quyền kháng cáo của bị cáo chưa thành niên.
Tuy nhiên trên thực tế có những trường hợp NBC thực hiện quyền kháng cáo đối với bản án, quyết định của Tòa án vì cho rằng bản án, quyết định của Tòa án là thiếu căn cứ, vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ họ, nhưng bản thân bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo lại không chấp nhận kháng cáo và yêu cầu NBC không làm đơn kháng cáo hoặc rút kháng cáo. Nếu NBC vẫn thực hiện quyền kháng cáo, dẫn tới việc bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo không tiếp tục mời NBC đó tham gia bào chữa ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, vậy ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, NBC đó có được tham gia phiên tòa hay không, nếu có, họ tham gia phiên tòa với tư cách gì. Nếu vì có kháng cáo của NBC dẫn tới bản án, quyết định của Tòa án phúc thẩm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo thì trong trường hợp này, NBC có phải chịu trách nhiệm không?
Mặc dù điều luật không qui định cụ thể, tuy nhiên, NBC với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, tham gia tố tụng nhằm chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, do vậy có thể hiểu kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo.