Hành vi cạnh tranh không lành mạnh? Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong sở hữu trí tuệ? Các biện pháp chống cạnh tranh không lành mạnh trong sở hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam?
Sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng là tài sản vô hình chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Đối tượng sở hữu công nghiệp là một yếu tố thể hiện lợi thế cạnh tranh trong thương mại nên các đối thủ cạnh tranh có thể thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhằm xâm hại các đối tượng này để thu lợi bất chính trong kinh doanh.
Chính vì vậy, các doanh nghiệp đã và đang tích cực thực hiện các hoạt động bảo vệ các đối tượng sở hữu công nghiệp của mình, trong đó; có quyền chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh là một bộ phận thuộc quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, vậy nội dung quyền này được biểu hiện cụ thể như thế nào, Luật Dương Gia sẽ đưa ra lời giải đáp trong bài viết dưới đây.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Cơ sở pháp lý:
Văn bản hợp nhất
1. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh?
Có thể hiểu đơn giản, cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh không đẹp, vượt quá giới hạn mà pháp luật cho phép, đi ngược lại truyền thống kinh doanh lành mạnh, công bằng.
Luật Cạnh tranh Việt Nam đưa ra định nghĩa về cạnh tranh không lạnh mạnh như sau: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Nhìn chung, định nghĩa này tương tự với định nghĩa của Công ước Paris và pháp luật các nước nền kinh tế thị trường phát triển trên thế giới.
Xuất phát từ khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh, có thể xác định một số đặc điểm cơ bản của hành vi cạnh tranh không lành mạnh, cụ thể:
Một là, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh do các chủ thể kinh doanh thực hiện trên thị trường, hướng tới đối thủ cạnh tranh và nhằm mục đích lợi nhuận.
Hai là, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi có tính chất đối lập, đi ngược lại các thông lệ, truyền thống kinh doanh tốt đẹp, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh, những quy tắc xử sự chung đã được chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong hoạt động kinh doanh trên thị trường.
Ba là, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi gây thiệt hại, có thể gây thiệt hại đến lợi ích của chủ thể kinh doanh khá và người tiêu dùng.
2. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong sở hữu trí tuệ?
Sở hữu trí tuệ là thuật ngữ dùng chung bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Trong đó, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh được áp dụng đối với quyền sở hữu công nghiệp, là một bộ phận của quyền sở hữu công nghiệp, cụ thể, Luật sở hữu trí tuệ giải thích Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
Theo Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1883, một điều ước quốc tế sớm nhất có quy định về việc chống cạnh tranh không lành mạnh, có thể nhận diện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp bao gồm: hành vi gây nhầm lẫn; hành vi lừa dối; hành vi vi phạm bí mật thương mại; hành vi lợ dụng không chính đáng thành quả kinh doanh của người khác;
Các hành vi cạnh tranh không lành manh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam được quy định lần đầu tiên tại Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 03/10/2000 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp. Sau khi
– Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ; ví dụ trường hợp cơ sở cà phê Mê-hi-cô sử dụng biển hiệu gây nhầm lẫn với biển hiệu của xí nghiệp Trung Nguyên.
– Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hóa, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ;
– Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng;
– Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng.
3. Các biện pháp chống cạnh tranh không lành mạnh trong sở hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam?
Pháp luật nước ta thừa nhận nhiều biện pháp giải quyết nhiều biện pháp giải quyết vụ việc cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp. Các biện pháp chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp được hiểu là các biện pháp mà pháp luật đã quy định, cho phép chủ thẻ bị xâm hại (gồm doanh nghiệp, chủ thể quyền sở hữu công nghiệp, chủ thể liên quan khác) hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền được áp dụng để điều tra, xử lý các hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của chủ thể bị xâm hại.
Thứ nhất, quyền tự bảo vệ (hay biện pháp khởi kiện dân sự) của các chủ thể quyền sở hữu công nghiệp.
Luật sở hữu trí tuệ quy định tương đối cụ thể về quyền tự bảo vệ (hay biện pháp khởi kiện dân sự) của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ (trong đó có quyền sở hữu công nghiệp), theo đó, tổ chức cá nhân bị thiệt hại hoặc có khả năng bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp dân sự quy định tại Điều 202 của Luật sở hữu trí tuệ và các biện pháp hành chính theo quy định của pháp luật cạnh tranh. các biện pháp dân sự có thể áp dụng là: Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm, buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thường thiệt hại; buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ (Điều 202 Luật Sở hữu trí tuệ).
Thứ hai, biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
Luật sở hữu trí tuệ cũng quy định rằng, tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật cạnh tranh, bởi vậy, các hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp sẽ được áp dụng theo quy định của Nghị định 75/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh.
Thứ ba, các biện pháp khác
Do hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp vừa vi phạm pháp luật về cạnh tranh vừa vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ nên các hành vi này cũng là đối tượng của các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, các hành vi này có thể bị xử lý bằng biện pháp dân sự, biện pháp hành chính và biện pháp hình sự.
Về biện pháp xử phạt hành chính, theo
Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500 nghìn đồng đến 250 triệu đồng đối với một trong các hành vi: (i) bán, vận chuyển (kể cả quá cảnh), tàng trữ để án hàng hóa, dịch vụ có gắn chỉ dẫn thương mại lên hàng hóa, dịch vụ gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ hoặc xuất xử, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hóa, dịch vụ hoặc điều kiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
Về biện pháp xử lý hình sự: các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp được coi là vi phạm nghiêm trọng có thể bị truy tố theo Điều 217- tội vi phạm quy định về cạnh tranh hoặc điều 226- tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của Bộ luật hình sự năm 2015. Theo đó, người trực tiế tham gia hoặc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh nhằm thu lợi bất chính thù bị phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 3 tỷ đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù đến 05 năm. Pháp nhân thương mại có thể bị phạt tiền đến 3 tỷ đồng, cấm kinh doanh, hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.