Quyền bình đẳng giữa vợ chồng đối với tài sản chung. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng.
Quyền bình đẳng giữa vợ chồng đối với tài sản chung. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng.
Tóm tắt câu hỏi:
Nếu một người bố bỏ vợ con lúc vợ ốm đau đi gần 20 năm đi lấy vợ khác, nhưng trong sổ đỏ nhà đất đến giờ vẫn còn tên của cả vợ chồng thì quy định của pháp luật về quyền của từng người như thế nào trong trường hợp này. Ông ấy vẫn có quyền lợi là nửa tài sản hay thế nào? Em cần được tư vấn, mong anh chị tư vấn giúp em!
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
– Luật hôn nhân và gia đình 2014
2. Nội dung tư vấn:
Theo quy định tại Điều 33
+ Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của
>>> Luật sư tư vấn quyền bình đẳng giữa vợ chồng đối với tài sản chung: 1900.6568
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
+ Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
+ Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Khoản 1 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng như sau:
“1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.”
Tài sản này là tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân, người bố bỏ đi gần 20 năm và chung sống với 01 người khác, chưa ly hôn vợ cũ, trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên vợ chồng thì đây vẫn được xác định là tài sản chung vợ chồng. Người chồng có quyền đối với 1/2 khối tài sản này.
Nếu ly hôn, khi phân chia tài sản chung vợ chồng thì có tính đến phần công sức đóng góp của người vợ và người chồng theo quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014.