Tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là gì? Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự?
Tranh tụng là một đặc trưng trong tố tụng hình sự, được biểu hiện rõ nhất trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự thời gian qua cho thấy các
Mục lục bài viết
1. Tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là gì?
Để làm rõ khái niệm tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, trước hết cần làm rõ các khái niệm: tranh tụng, tranh tụng trong tố tụng hình sự.
Thứ nhất, về khái niệm tranh tụng. Ở Việt Nam, khái niệm tranh tụng xuất hiện đầu tiên và chính thức là từ Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp và được ghi nhận trong Hiến pháp nước công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tranh tụng được hiểu với nghĩa không phải là một kiểu mô hình tố tụng mà là hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng hình sự, cụ thể là tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự, bao gồm cả phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Trong đó, Kiểm sát viên và ngươi tham gia tố tụng dựa trên các tài liệu, chứng cứ, các quy định của pháp luật trên cơ sở tư duy logic hình thức để đưa ra các luận điểm, luận cứ và luận chứng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Thứ hai, về khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự. Khái niệm tranh tụng được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau: tranh tụng có thể được hiểu là một hoạt động của tố tụng hình sư; tranh tụng được hiểu là một nguyên tắc của tố tụng hình sự và tranh tụng cũng được hiểu như một kiểu mô hình tố tụng. Nếu khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự được hiểu dưới góc độ là một hoạt động trong tố tụng hình sự thì có thể giải thích tranh tụng như sau: Tranh tụng trong tố tụng hình sự là hoạt động của các chủ thể tố tụng có chức năng đối trọng nhau (chủ yếu là bên buộc tội và bên gỡ tội) để bảo vệ quan điểm của mình và bác bỏ quan điểm của phía đối lập, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, trên cơ sở đó giúp
Về khái niệm tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
Tố tụng hình sự là một quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án, quá trình đó trải qua nhiều giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử vụ án. Bản chất của tranh tụng được thể hiện đầy đủ và rõ nét nhất trong giai đoạn xét xử sơ thẩm tại tòa án. Đặc điểm của tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm là tòa án giữ vai trò là chủ thể chính trong việc duy trì và hướng dẫn các thủ tục đối với các bên tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Tuy nhiên, tòa án không hạn chế tính chủ động và tích cực của các bên tham gia tranh tụng hoặc “làm thay chức năng của họ”. Mặt khác, tòa án cũng không được cho cho quá trình tranh tụng diên ra theo ý chí chủ quan của các bên.
Tranh tụng tại phiên tòa xét xử sở thẩm vụ án hình sự là những hoạt động được thực hiện tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bởi các chủ thể tố tụng có chức năng đối trọng nhau, chủ yếu là bên buộc tội và bên gỡ tội để bảo vệ quan điểm của mình và bác bỏ quan điểm của phía đối lập góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, giúp tòa án ra phán quyết giải quyết vụ án khách quan toàn diện, đầy đủ, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan tổ chức.
2. Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự:
Nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, bảo đảm việc tranh tụng không chỉ thể hiên ở phần tranh luận mà còn thể hiện ngay trong phần xét hỏi,
Như vậy, trong phần phân tích dưới đây, Luật Dương Gia sẽ tập trung vào các quy định về xét hỏi và tranh luận.
Trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung (nếu có). Ý kiến bổ sung không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo.
2.1. Trình tự xét hỏi:
– Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý.
– Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi.
Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ.
Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản.
– Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử xem xét vật chứng có liên quan trong vụ án.
Quy định này đã đặt nặng trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Hội đồng xét xử, để bảo đảm tranh tụng được thể hiện ngay trong phần xét hỏi tại phiên tòa.
Khi xét thấy những tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa xem họ có yêu cầu xét hỏi vấn đề gì nữa không. Nếu không có yêu cầu xét hỏi thì kết thúc việc xét hỏi; nếu có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là cần thiết thì chủ tọa phiên tòa quyết định tiếp tục việc xét hỏi.
2.2. Trình tự phát biểu khi tranh luận:
– Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày luận tội; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Tòa án tuyên bố bị cáo không có tội.
– Bị cáo trình bày lời bào chữa; người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo; bị cáo, người đại diện của bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa.
– Bị hại, đương sự, người đại diện của họ trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình; nếu có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ thì người này có quyền trình bày, bổ sung ý kiến.
– Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày, bổ sung ý kiến sau khi Kiểm sát viên trình bày luận tội.
Đối với quy định này, BLTTHS 2015 đã bổ sung quy định về trình tự phát biểu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ tại phiên tòa trong trường hợp vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại
Đối với việc luận tội của Kiểm sát viên:
– Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
– Nội dung luận tội phải phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
– Đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; đề nghị mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng.
– Kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
Việc quy định như vậy đã phản ánh tầm quan trọng của luận tội tại phiên tòa và nâng cao trách nhiệm, nhận thức của Kiểm sát viên về việc trình bày luận tội tại phiên tòa.
2.3. Tranh luận tại phiên tòa:
– Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra đề nghị của mình.
– Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác.
– Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, người tham gia tố tụng khác tranh luận, trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án và ý kiến lặp lại.
Chủ tọa phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người bào chữa, người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.
– Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án.
Quy định về tranh luận là biểu hiện rõ nhất của của hoạt động tranh tụng dưới góc độ là hoạt động trong tố tụng hình sự. Sự thật khách quan của vụ án có thể sẽ được lộ rõ nếu việc tranh luận được đi đúng hướng và hiệu quả.