Quy định xác minh, thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự? Thẩm quyền thu thập, bổ sung chứng cứ theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015?
Một trong những cách để pháp luật tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói riêng dùng vào việc giải quyết vụ án một cách chính xác và đảm bảo tính đúng đắn của phán quyết đó là quy định về việc xác minh, thu thập chứng cứ được quy định trong
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài trực tuyến 24/7: 1900.6568
Cơ sở pháp lý:
– Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015
Mục lục bài viết
1. Quy định xác minh, thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự:
Trên cơ sở quy định của pháp luật Tố tụng dân sự hiện hành thì có quy định về việc xác minh và thu thập chứng cứ để nhằm mục đích giải quyết vụ án dược nhanh nhất và chính xác nhất. Chính vì vậy, việc xác minh chứng cứ được biết đến là việc sử dụng các biện pháp nghiệp vụ do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm kiểm tra, xác định tính khách quan, xác thực tính liên quan và tính hợp pháp của chứng cứ. Bên cạnh việc hiểu về xác minh là như thế nào thì định nghĩa về thu thập chứng cứ cũng được biết đến là một giai đoạn của quá trình chứng minh. Nếu không có thu thập chứng cứ thì cũng không có kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền thu thập chứng cứ.
Trên cơ sở quy định tại Điều 97 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có quy định thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án xác minh thu thập chứng cứ bằng cách: “Triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp những tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án”. Về thủ tục thu thập chứng cứ trong những trường hợp này phải tuân thủ những quy định như:
– Thủ tục giải thích quyền và nghĩa vụ cho đối tượng bị áp dụng trong các biện pháp hỏi cung; lấy lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, người làm chứng, người bị hại; khi tiến hành đối chất, nhận dạng, khám người, khám nơi làm việc, khám chỗ ở, địa điểm.
– Quy định về việc phải có người chứng kiến đối với biện pháp khám người, khám xét dấu vết trên thân thể bị can, bị hại, nhân chứng khám nghiệm hiện trường, khám nghiện tử thi, thực nghiệm điều tra, nhận dạng thì người chứng kiến là bất kỳ ai và chỉ cần một người (riêng biện pháp khám người, khám xét dấu vết trên thân thể, thì phải là người cùng giới); Biện pháp khám chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm đòi hỏi phải có người láng giềng, đại diện chính quyền địa phương (nơi làm việc thì đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc) chứng kiến. Trường hợp vắng chủ nhà thì phải có hai người chứng kiến; Biện pháp thu giữ thư tín, điện tín, bưu phẩm tại bưu điện thì phải có sự chứng kiến của đại diện cơ quan bưu điện…
Trên cơ sở nhằm thu thập thêm về chứng cứ thì người bào chữa có quyền gặp người được bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để thực hiện việc hỏi, nghe những người được bào chữa, bị hại, người làm chứng người liên quan khác trong vụ án trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa. Chứng cứ của Luật sư hay còn gọi là người bào chưa đã thu thập và đưa ra nhằm chứng minh, có giá trị “gỡ tội”, mang tính phản biện cao (một phần hoặc toàn bộ) đối với chứng cứ buộc tội và luận điểm của cơ quan tiến hành tố tụng. Để bào chữa có hiệu quả, Luật sư sẽ có những hoạt động thu thập chứng cứ và đưa ra những kiến nghị điều tra bổ sung, điều tra lại, đình chỉ điều tra, rút quyết định truy tố, thay đổi tội danh… Và những kiến nghị này của Luật sư cũng cần phải được các cơ quan xem xét một cách đầy đủ.
Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án. Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do những người quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 88 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật này.
Với tư cách là cơ quan giải quyết vụ việc dân sự, nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự được đúng đắn, cũng như hỗ trợ các bên đương sự khi họ không thể tự mình thu thập chứng cứ, khoản 2 Điều 97
2. Thẩm quyền thu thập, bổ sung chứng cứ:
Trong quá trình xét xử một vụ án thì hoạt động thu thập chứng cứ có ý nghĩa rất quan trọng trong không chỉ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự mà còn được xác định là rất quan trọng đối với việc giải quyết các vụ án tố tụng khác. Bởi lẽ trong một vu án hay vụ việc dân sự mà thu thập được đầy đủ chứng cứ Toà án và những người tham gia tố tụng mới đủ điều kiện và cơ sở để nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, từ đó mới có thể ra phán quyết đúng đắn về vụ việc dân sự mà Tòa án đang thụ lý.
Do đó, các chủ thể chứng minh đều tham gia vào hoạt động thu thập chứng cứ. Tùy theo vị trí tố tụng trong tố tụng dân sự, các cá nhân, cơ quan tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng có thể với tư cách là đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người thẩm định giá tài sản. Họ tham gia vào quá trình chứng minh nhằm làm sáng tỏ vụ việc dân sự với mục đích và vai trò khác nhau. Để chứng minh cho yêu cầu của mình hay các thông tin, kết luận của mình về vụ việc dân sự thì các cá nhân, cơ quan, tổ chức đều có quyền và nghĩa vụ thu thập chứng cứ để giao nộp cho Toà án. Vì vậy, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã quy định các biện pháp thu thập chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Khắc phục bất cập về thẩm quyền thu thập, bổ sung chứng cứ của Tòa án trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2003, Điều 252 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định cụ thể Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ.
Từ quy định được nêu ra ở trên thì việc Tòa án thực hiện thẩm quyền của mình trong viêc xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa, xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án, trưng cầu giám định, định giá tài sản, trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại, yêu cầu định giá lại tài sản là những hoạt động thuộc thẩm quyền của Tòa án từ khi thụ lý hồ sơ vụ án mà
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 cũng quy định, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án có quyền xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ. Điều 252 quy định lại các quyền này và có bổ sung việc Tòa án tiếp nhận hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án. Xét về bản chất thì đó cũng là các hoạt động điều tra của Tòa án trước khi xét xử vụ án. Tòa án sẽ thực hiện việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ khi Viện kiểm sát không bổ sung được theo yêu cầu của Tòa án, nghĩa là vụ án đã được trả để điều tra bổ sung nhưng không thực hiện được.
Tòa án dựa theo như quy định của pháp luật Tố tụng dân sự hiện hành để tiến hành một số hoạt động điều tra và khi đó trách nhiệm hoàn toàn thuộc về Tòa án. Do đó, đây là quy định mới tiến bộ bảo đảm quyền độc lập của Tòa án nói chung và Hội đồng xét xử nói riêng, Tòa án hoàn toàn có thẩm quyền xác minh, thu thập hoặc bổ sung chứng cứ nếu thấy cần thiết không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Cơ quan điều tra hay Viện kiểm sát. Nếu như quy định trước đây thì Tòa án chỉ được yêu cầu mà không có quyền quyết định, nên không phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và chủ trương của Đảng về kiểm soát quyền lực, không bảo đảm cho Tòa án thực hiện đầy đủ quyền tư pháp.