Đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự là gì? Quy định về việc đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự?
Thông qua các chứng cứ đó là các tình tiết được xác định trên thực tế, Tòa Án dựa vào đó có thể xác định được tình tiết đó có phải là chứng cứ chứng minh để giải quyết vụ việc hay không? Tòa án dựa nào những yếu tố gì để đánh giá chứng cứ trong vụ án dân sự? Pháp luật có quy định như thế nào về việc đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự. Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ giúp bạn đọc có thể giải đáp những thắc mắc trên.
Cơ sở pháp lý:
Luật sư
1. Đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự là gì?
Căn cứ dựa vào các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành có thể thấy pháp luật dân sự không giải thích cụm từ đánh giá chứng cứ và trong và trong các văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng không giải thích cụm từ đánh giá chứng cứ là gì, để người tiến hành tố tụng tại phiên tòa biết và thực hiện. Do đó việc đánh giá chứng cứ của vụ án hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực, trình độ của Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật
Đánh giá chứng cứ trong tô tụng dân sự là một thủ tục rất quan trọng để đi đến những kết luận chính xác nhất về chứng cứ đó, theo đó việc đánh giá trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự các chủ thể phải chứng minh phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về chứng cứ. Như vậy nên khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự cần xem xét, đánh giá khách quan đối với những gì không được rút ra từ các nguồn do pháp luật quy định, không được thu thập, nghiên cứu đánh giá và sử dụng theo đúng quy định của pháp luật thì không được coi là chứng cứ, không được sử dụng giải quyết vụ việc dân sự. Nghiên cứu chứng cứ, đánh giá chứng cứ theo quy định tại Điều 93 và Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện đầy đủ, chính xác, sự liên quan giữa các chứng cứ và khảng định tính hợp pháp, tính liên quan, giá trị chứng minh của từng chứng cứ, có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi lẽ, tất cả các hoạt động tố tụng dân sự đều phải đi đến kết luận về giá trị chứng minh của chứng cứ, trên cơ sở đó mới có thể kết luận về vụ án, vụ việc dân sự.
2. Quy định về việc đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự
Tại Điều 93 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về chứng cứ như sau:
“Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”.
Theo đó, có thể thấy chứng cứ là một trong những yếu tố có vai trò quan trọng, quyết định là cơ sở giúp Tòa án đưa ra kết luận cuối cùng. Chứng cứ trong tố tụng dân sự phải bảo đảm 03 thuộc tính:
Tính khách quan: chứng cứ là những gì có thật.
Tính liên quan: chứng cứ phải liên quan trực tiếp, gián tiếp đến vụ việc.
Tính hợp pháp: chứng cứ phải được thu thập, bảo quản, xem xét, đánh giá, nghiên cứu theo trình tự, thủ tục luật định.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ bằng những phương pháp khác nhau, theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự 2015. Bên cạnh đó, Tòa án cũng có thể tiến hành một hoặc nhiều phương pháp khác nhau theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện vụ án nhất.
Sau khi đã tiến hành thu thập được đầy đủ các tài liệu, chứng cứ thì việc sử dụng các tài liệu, chứng cứ đó một cách hiệu quả, đòi hỏi người tiến hành tố tụng phải có những kỹ năng nhất định về phân tích, lập luận vấn đề pháp lý.
Điều 108 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về đánh giá chứng cứ như sau:
” Điều 108. Đánh giá chứng cứ
1. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác.
2. Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định tính hợp pháp, tính liên quan, giá trị chứng minh của từng chứng cứ.
Tất cả các chủ thể chứng minh đều có quyền đánh giá chứng cứ. Việc đánh giá chứng cứ chủ yếu thuộc về Tòa án mà cụ thể thuộc về Hội đồng xét xử tại phiên tòa và trong phòng nghị án.
Dựa vào chứng cứ mà các đương sự có cơ sở xác đáng để chứng minh nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở để xác định đủ hay không đủ điều kiện để xác định tình tiết của vụ, việc dân sự đúng, đủ, chính xác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự và bảo vệ pháp luật. Chính vì vậy, hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá là cả một quá trình để xác định sự thật của vụ án, đánh giá kết quả một cách chính xác.
Việc xác định không đúng những nội dung cần xác minh sẽ làm cho quá trình thu thập chứng cứ bị thu hẹp, bỏ sót, không thu thập hết những thông tin, tài liệu liên quan đến vụ việc. Nội dung cần xác minh khi thu thập chứng cứ bao gồm: Xác định rõ quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự; xác định đầy đủ tư cách đương sự tham gia tố tụng; và xác định làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh và trọng tâm vấn đề cần phải chứng minh.
Hoạt động đánh giá chứng cứ của Tòa án có tính chất quyết định tới kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện và đầy đủ; các chủ thể chứng minh phải xem xét tất cả các chứng cứ từ các nguồn khác nhau; đánh giá chứng cứ phải chính xác; và đánh giá chứng cứ phải dựa trên cơ sở pháp luật. Phương pháp đánh giá chứng cứ: đánh giá từng chứng cứ; và đánh giá tổng hợp chứng cứ.
Bên cạnh việc đánh giá chứng cứ, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 còn có quy định về việc bảo quản tài liệu, chứng cứ. Theo đó:
– Tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp tại Tòa án thì việc bảo quản tài liệu, chứng cứ đó do Tòa án chịu trách nhiệm.
– Tài liệu, chứng cứ không thể giao nộp được tại Tòa án thì người đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ đó có trách nhiệm bảo quản.
– Trường hợp cần giao tài liệu, chứng cứ cho người thứ ba bảo quản thì Thẩm phán ra quyết định và lập biên bản giao cho người đó bảo quản. Người nhận bảo quản phải ký tên vào biên bản, được hưởng thù lao và phải chịu trách nhiệm về việc bảo quản tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật.
– Nghiêm cấm việc hủy hoại tài liệu, chứng cứ.
Như vậy có thể đưa ra kết luận về việc đánh giá chứng cứ đó là: theo quy định của pháp luật trong Tố tụng dân sự, khi có đương sự nộp đơn khởi kiện yêu cầu đến Tòa án và được Tòa án thụ lý giải quyết làm phát sinh vụ việc dân sự (gồm vụ án dân sự và vụ việc dân sự). Quá trình giải quyết vụ việc dân sự gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người yêu cầu phải thực hiện chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Đây cũng là nghĩa vụ của đương sự. Để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp thì đương sự bắt buộc phải đưa ra chứng cứ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án (trừ các trường hợp quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 91và Điều 92 BLTTDS), đồng thời với nhiệm vụ quyền hạn của mình thì Cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, người tiến hành tố tụng dân sự lại có trách nhiệm thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ mà đương sự xuất trình cũng như do chính Tòa án thu thập để có cơ sở bảo vệ chính xác, kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Theo đó mà đối với việc nghiên cứu và đánh giá chứng cứ cần phải thực hiện xác định chứng cứ trong vụ việc dân sự xem chứng cứ đó có thật hay không được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp; đồng thời cần phải phân biệt rõ tài liệu nào là nguồn chứng cứ và tài liệu nào không phải là nguồn chứng cứ khi nghiên cứu vụ án dân sự theo quy định của pháp luật đề ra.
Trên đây là thông tin chúng tôi cung cấp về nội dung ” Quy định về việc đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự” và các thông tin pháp lý khác dựa trên quy định của pháp luật hiện hành.