Khái quát lịch sử hình thành và phát triển quy định về tội gây rối trật tự công cộng theo Luật Hình sự Việt Nam qua các giai đoạn
Mục lục bài viết
1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến pháp điển hóa lần thứ nhất – BLHS năm 1985:
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công chói lọi mang ý nghĩ chính trị – lịch sử to lớn. Hình thành một Nhà nước kiểu mới cũng là đánh dấu một cột mốc quan trọng trong sự phát triển lịch sử lập pháp ở nước ta. Ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời ban hành nhiều văn bản để bảo vệ các thành quả của cách mạng và bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, bảo vệ hoạt động bình thường, ổn định xã hội ở những nơi công cộng dù chưa đề cập trực tiếp đến tội gây rối trật tự công cộng như Điều lệ tạm thời số 329-TTg ngày 17/9/1954 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý các loại vũ khí; Thông tư số 55-TTg ngày 24/12/1958 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường sự lãnh đạo đối với việc bắt giữ, truy tố và xét xử, trong đó đặc biệt nhấn mạnh: “… Nhiệm vụ thứ ba của Công an, Công tố và Tòa án là bảo vệ trật tự, trị an của xã hội..”.
Sau đó, để bảo đảm pháp chế, bảo vệ trật tự công cộng và tài sản công cộng, Hiến pháp Việt Nam năm 1959 đã quy định:
Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ
Từ năm 1960 đến năm 1975 là giai đoạn miền Bắc song song tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời là hậu phương vững chắc để chi viện cho miền Nam kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Công tác quản lý kinh tế có gặp khó khăn, việc tuyên truyền, giáo dục và phát động quần chúng nhân dân bảo vệ tài sản công cộng chưa thực sự tốt, việc trừng trị những hành động xâm phạm đến tài sản của Nhà nước, tổ chức và của hợp tác xã chưa được ngăn chặn kịp thời.
Năm 1966, tại Báo cáo tổng kết năm 1965 của
Các Tòa án cần chú trọng việc đấu tranh chống các tội phạm nghiêm trọng về trị an và về kinh tế nhằm góp phần tích cực vào bảo vệ trị an, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản và những quyền lợi hợp pháp của nhân dân, bảo đảm thực hiện tốt các chính sách thị trường, giá cả, đặc biệt chú trọng xử lý đúng đắn và kịp thời những tội phạm gây trở ngại cho việc phòng không nhân dân, phòng gian bảo mật, sơ tán, thực hiện các nghĩa vụ quân sự, tăng cường và bảo vệ giao thông liên lạc, vận tải….
Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả công tác này, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 14 – TATC ngày 12/8/1974 về việc hướng dẫn việc thực hiện Nghị quyết số 228 ngày 12/1/1974 của Bộ Chính trị, trong đó chỉ rõ: tăng cường quản lý lao động, quản lý thị trường và giữ vững trật tự trị an xã hội…”.
Đặc biệt, để điều chỉnh trực tiếp một số loại tội phạm nghiêm trọng, phổ biến trong đó có tội gây rối trật tự công cộng, Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời đã ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/03/1976 quy định Các tội phạm và hình phạt. Tại Điều 9 – Tội xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khỏe nhân dân với việc bảo vệ các khách thể – trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khỏe nhân dân tránh khỏi sự xâm phạm của tội phạm đã quy định phạm một trong các tội dưới đây thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm; trường hợp nghiêm trọng, thì bị phạt tù đến 15 năm. Tụ tập đông người nhằm gây náo động trong dân chúng và quấy rối trật tự ngoài đường phố hoặc ở các nơi công cộng chống lại nhân viên nhà nước khi làm nhiệm vụ;
– Vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn nghiêm trọng;
– Tổ chức du đãng có hành động càn quấy, đe dọa tính mạng người khác và an toàn xã hội;
– Cờ bạc, tổ chức ổ mại dâm, buôn bán, tàng trữ ma túy và các chất độc khác.
Ngoài ra trong mọi trường hợp, có thể bị phạt tiền đến 1.000 đồng ngân hàng. Kẻ phạm tội có tính chất chuyên nghiệp còn bị phạt quản chế hoặc cấm lưu trú ở một địa phương từ 1 năm đến 5 năm, sau khi mãn hạn tù:
Tại Điều 9 Sắc luật, những hành vi sau đây cũng bị coi là tội xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân và bị xử phạt:
– Giả danh cán bộ, bộ đội, nhân viên an ninh;
– Cố ý vi phạm quy tắc quản lý vũ khí, chất nổ;
– Trốn trại giam hoặc tổ chức cho kẻ khác trốn trại giam, không vì mục đích phản cách mạng;
– Phản tuyên truyền, chống lại việc thực hiện các chính sách và pháp luật nhà nước, không vì mục đích phản cách mạng;
– Cố ý truyền bá, lưu hành các tác phẩm văn hóa đồi trụy, không vì mục đích phản cách mạng;
– Xuất cảnh, nhập cảnh trái phép, không vì mục đích phản cách mạng;
– Vi phạm các quy định về quyền lập hội và quyền hội họp.
Sau đó, Nhà nước cũng ban hành nhiều văn bản pháp luật hình sự để điều chỉnh kịp thời các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, và để duy trì trật tự, an toàn xã hội, đồng thời pháp luật hình sự còn góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục người ý thức chấp hành và tuân theo pháp luật.
Tuy nhiên, việc ban hành nhiều văn bản nhưng còn chưa tập trung, thống nhất và đồng bộ đòi hỏi Nhà nước cần ban hành một văn bản mang tính khái quát, có hệ thống và bao quát đầy đủ các lĩnh vực bị tội phạm xâm phạm đến, cũng như tránh việc áp dụng pháp luật theo nguyên tắc “tương tự”, nhiều văn bản pháp luật đã không đáp ứng và phục vụ kịp thời quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử do đã lạc hậu, lỗi thời.
Vì vậy, Nhà nước Việt Nam đã ban hành BLHS đầu tiên BLHS năm 1985.
2. Giai đoạn từ sau khi ban hành BLHS năm 1985 đến pháp điển hóa lần thứ hai – BLHS năm 1999:
Theo quy luật khách quan và xu hướng tất yếu của quá trình phát triển đi lên của xã hội, cũng như sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của Việt Nam, đòi hỏi việc ban hành một văn bản mang tính khái quát, tập trung, có hệ thống và bao quát đầy đủ các lĩnh vực bị tội phạm xâm phạm đến. Ngày 27/06/1985, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua BLHS năm 1985 và Bộ luật này bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/01/1986. Việc ban hành một BLHS mới không những thể hiện rõ nét nhất sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng hệ thống pháp luật nói chung, lĩnh vực luật hình sự nói riêng. Đặc biệt, với việc ban hành một Bộ luật mang tính hệ thống và chỉnh thể, BLHS với tư cách là một công cụ hữu hiệu và sắc bén của Nhà nước chuyên chính vô sản để bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, các công dân, qua đó đấu tranh phòng ngừa và chống các hành vi phạm tội, góp phần hoàn thành hai nhiệm vụ chính trị xã hội – xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
BLHS năm 1985 đã quy định các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính thành một chương trong Phần các tội phạm của Bộ luật, đó là Chương VIII nhưng lại chia thành ba mục khác nhau:
Mục A – Các tội xâm phạm an toàn công cộng; Mục B – Các tội xâm phạm trật tự công cộng; Mục C – Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính.
Trong đó, tội gây rối trật tự công cộng được quy định rất rõ tại Điều 198 trong Mục B – Các tội xâm phạm trật tự công cộng như sau:
1. Người nào gây rối trật tự công cộng thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 1 năm đến 7 năm:
3. Có vũ khí hoặc có hành vi phá phách.
4. Lôi kéo kích động người khác gây rối.
5. Hành hung người can thiệp, bảo vệ trật tự công cộng
Như vậy, theo quy định của BLHS năm 1985, tội gây rối trật tự công cộng đã được ghi nhận là một tội danh độc lập với khách thể được bảo vệ là trật tự công cộng. Tuy nhiên, điều luật còn bộc lộ hạn chế, không đưa ra định nghĩa cụ thể về những hành vi gây rối trật tự công cộng nào được coi là tội phạm cũng như không có văn bản nào hướng dẫn cụ thể. Vì vậy, dẫn tới nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn, thiếu thống nhất giữa các cơ quan tố tụng trong việc áp dụng. Ngoài ra, theo cấu thành cơ bản tại khoản 1 Điều 198 thì chỉ cần một người nào đó có hành vi gây rối trật tự ở nơi công cộng thì sẽ bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm, tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà không cần đòi hỏi phải có hậu quả của hành vi phạm tội phải xảy ra. Với cách quy định không rõ ràng như thế, rất khó phân biệt giữa hành vi phạm tội gây rối trật tự công cộng và hành vi vi phạm hành chính.
Ngoài ra, nếu so sánh với hai Pháp lệnh về trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản riêng của công dân cùng ngày 21/10/1970, cũng như Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/03/1976 quy định các tội phạm và hình phạt của Bộ Tư pháp, BLHS năm 1985 đã thể hiện một bước tiến quan trọng trong việc pháp điển hóa các tội phạm hình sự nói chung và tội gây rối trật tự công cộng nói riêng thành các tội phạm tương ứng trong từng chương tội phạm của BLHS và phản ánh chính xác từng khách thể mà các tội phạm khác nhau đã xâm phạm đến.
Để thi hành BLHS năm 1985, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn sau này. Liên quan đến Phần các tội phạm BLHS, HĐTP Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 về “Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần các tội phạm của BLHS”, đã hướng dẫn về Chương VIII – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính, tuy nhiên trong đó lại không có hướng dẫn gì về tội gây rối trật tự công cộng, chủ yếu hướng dẫn về năm tội sau đây:
1. Tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 186 BLHS);
2. Tội vi phạm các quy định về quản lý vũ khí, phương tiện kỹ thuật, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ (Điều 192 BLHS);
3. Tội vi phạm các quy định về chữa bệnh, chế thuốc gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 196 BLHS);
4. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (Điều 201 BLHS);
5. Tội chống người thi hành công vụ (Điều 205 BLHS).
Ngoài ra, để bảo vệ an ninh trật tự và an toàn xã hội, Quốc hội khóa VIII tại kỳ họp thứ tư ngày 22/12/1988 đã ban hành Nghị quyết về công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Trong Nghị quyết đã nhấn mạnh:
Các cơ quan bảo vệ pháp luật cần được tăng cường và củng cố tổ chức, thực hiện trong sạch, vững mạnh, nghiêm khắc xử lý những cán bộ lạm dụng chức quyền, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đổi mới hoạt động, phối hợp chặt chẽ với nhau, đồng thời dựa vào các cơ quan khác của Nhà nước, các tổ chức xã hội và sự tham gia tích cực của công dân để nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội….
Hội đồng Nhà nước tăng cường công tác giám sát việc tuân theo pháp luật, hàng quý nghe báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tình hình và công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội … Các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp cần kiến nghị với các cơ quan bảo vệ pháp luật ở địa phương về những biện pháp cụ thể để tăng cường bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội và thường xuyên phản ánh với Hội đồng nhân dân về tình hình vi phạm pháp luật ở các cấp, các ngành.
Để thiết lập và giữ vững kỷ cương xã hội, điều rất cơ bản là phải thực sự tôn trọng và bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện phương châm lấy dân làm gốc, dựa vào sức mạnh của toàn dân, phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội … Quốc hội nhiệt liệt biểu dương những tập thể và cá nhân thuộc các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như các tổ chức xã hội và công dân đã hăng hái tham gia và có nhiều thành tích trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, góp phần giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Quốc hội kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước nêu cao ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cơ quan, đơn vị phát huy truyền thống đoàn kết trong nội bộ nhân dân, tích cực tham gia đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự tôn trọng tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, phấn đấu năm 1989 thực sự có bước chuyển biến tốt trong việc lập lại trật tự, kỷ cương xã hội.
Sau đó, để đáp ứng với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong từng thời điểm cụ thể, nhất là tình hình chính trị – xã hội mới hiện nay, với sự xuất hiện của nhiều loại tội phạm mới và sự thay đổi về phương thức hoạt động ngày càng phức tạp của tội phạm cũ, tình hình trật tự, an toàn xã hội vẫn phức tạp, gây thiệt hại về nhiều mặt và gây bất bình, lo lắng trong nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Chỉ thị số 135/CT ngày 14/5/1989 về Tăng cường công tác bảo vệ trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới. Theo đó, để tăng cường công tác bảo vệ trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng yêu cầu các cấp, các ngành thực hiện tốt các chủ trương, biện pháp sau đây:
1. Phát động quần chúng, xây dựng phong trào toàn dân giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, toàn dân tham gia, phòng ngừa và đấu tranh với các loại tội phạm, tệ nạn xã hội. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp và Thủ trưởng các cơ quan, xí nghiệp, đơn vị phải trực tiếp chỉ đạo xây dựng “phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc” ở đường phố, thôn, xã và “phong trào phòng gian, bảo mật, bảo vệ cơ quan” trong các cơ quan, xí nghiệp. Tổ chức các hội nghị phổ biến, nhân những điển hình tiên tiến của quần chúng làm tốt công tác bảo vệ an ninh trật tự ở các cấp huyện, tỉnh, tạo ra khí thế tiến công của quần chúng trên mặt trận bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội … Cho phép lập “quỹ bảo trợ an ninh trật tự” do sự đóng góp của nhân dân, của cơ quan, xí nghiệp, đơn vị đóng trên địa bàn phường, xã. Bộ Nội vụ phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của Mặt trận nghiên cứu hướng dẫn nội dung và tổ chức các hình thức hoạt động của phong trào theo hướng “tự quản”, “tự bảo vệ” từ cơ sở. Phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu đề xuất với Hội đồng Bộ trưởng chính sách khen thưởng và đãi ngộ vật chất, tinh thần đối với các đơn vị, cá nhân có thành tích xuất sắc và những người đã hy sinh, bị thương, bị thiệt hại tài sản trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự…
2. Thủ trưởng các ngành tổ chức tốt công tác bảo vệ ở đơn vị mình; tăng cường công tác quản lý, giữ gìn trật tự kỷ cương xã hội…
3. Trong tình hình không bình thường hiện nay, phải kiên quyết trấn áp bọn tội phạm, kể cả áp dụng các biện pháp đặc biệt, chống tư tưởng hữu khuynh đối với bọn tội phạm…
4. Tập trung giải quyết có hiệu quả các tệ nạn xã hội…
5. Tiếp tục xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao. Nghiêm khắc xử lý những cán bộ lạm dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và những hành động thiếu trách nhiệm gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả công tác giữ gìn trật tự, an toàn xã hội… Các Bộ, các ngành, các đoàn thể, Ủy ban nhân dân các cấp cần có trách nhiệm chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội gắn liền với công tác xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa và phải coi đây là một nhiệm vụ quan trọng thường xuyên trong hoạt động quản lý của mình … Hàng quý, Hội đồng Bộ trưởng sẽ nghe các Bộ, các ngành và Ủy ban nhân dân bốn thành phố lớn báo cáo công tác chấp hành pháp luật, phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Đặc biệt, ngày 12/9/1990, liên ngành Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên ngành số 06/TTLN về Hướng dẫn việc giải quyết án trọng điểm, trong đó có nêu loại tội để chọn làm án trọng điểm, trong đó có tội gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng, tội phạm này thuộc nhóm thứ ba trong ba nhóm tội cần đưa ra xét xử làm các án trọng điểm, cụ thể là:
– Tội phản bội Tổ quốc, tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, tội bạo loạn, tội gián điệp, tội tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa, tội phá rối an ninh, tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài, tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia, tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới.
– Tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa, tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền trong khi thi hành công vụ, tội cố ý hủy hoại tài sản xã hội chủ nghĩa, tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa.
– Tội giết người, tội cướp tài sản của công dân, tội chống người thi hành công vụ, tội gây rối trật tự công cộng, các tội xâm phạm những quyền tự do, dân chủ của công dân gây hậu quả nghiêm trọng…
Việc đưa ra các loại tội được lựa chọn để xét xử làm án trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, tăng cường pháp chế trong hoạt động quản lý kinh tế, giữ gìn bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, qua đó phục vụ tốt yêu cầu chính trị chung và nhiệm vụ trọng tâm của địa phương, cũng như phát huy sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành ở địa phương trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
Thời gian sau, do sự phát triển của cơ sở hạ tầng và sự đa dạng các phương tiện tham gia giao thông, tình trạng đua xe trái phép, đặc biệt là đua xe máy, diễn ra phức tạp, gây mất trật tự công cộng, vi phạm các quy định về trật tự, an toàn giao thông đường bộ và trật tự, an toàn giao thông đô thị, đe dọa tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản của cá nhân, tổ chức hoặc Nhà nước. Trong thời gian này việc xử lý về hình sự của các
Như vậy, tính đến trước khi ban hành BLHS Việt Nam năm 1999, với hệ thống văn bản ban hành đã trực tiếp hoặc gián tiếp quy định trong đó các vấn đề về bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm hoạt động bình thường và ổn định của xã hội, qua đó kiên quyết xử lý nghiêm minh, triệt để và đúng pháp luật tất cả các hành vi xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng ở mức độ từ xử lý hành chính đến xử lý hình sự.
3. Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 1999 đến trước khi ban hành BLHS năm 2015:
Nhằm khắc phục các hạn chế của BLHS năm 1985, Quốc hội ban hành BLHS mới ngày 21/12/1999, đó là một sự kiện pháp lý quan trọng. Trong BLHS năm 1999, tội gây rối trật tự công cộng được quy định tại Điều 245 Chương XIX − Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng:
1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
– Có dùng vũ khí hoặc có hành vi phá phách;
– Có tổ chức;
– Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;
– Xúi giục người khác gây rối;
– Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;
– Tái phạm nguy hiểm.
So sánh với Điều 198 BLHS năm 1985 thì Điều 245 BLHS năm 1999 quy định về tội phạm này có những sửa đổi, bổ sung như sau đây:
– Khoản 1 Điều 198 BLHS năm 1985 quy định “Người nào gây rối trật tự công cộng”
– Khoản 1 Điều 245 BLHS năm 1999 quy định “Người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.
Việc sửa đổi, bổ sung này đã làm phạm vi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi gây rối trật tự công cộng giảm đi nhiều, nội dung cấu thành tội phạm được xây dựng theo hướng chỉ xử lý hình sự trong các trường hợp cụ thể.
BLHS năm 1999 cũng bổ sung thêm một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của Điều 245. Điều này khoản 2 Điều 198 BLHS năm 1985 chưa quy định như: có tổ chức, gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng, tái phạm nguy hiểm. Và sửa đổi một số tình tiết “lôi kéo, kích động người khác” thành tình tiết “xúi giục người khác”.