Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sỹ là gì? Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ tiếng Anh là gì? Quy định của Bộ luật hình sự về Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ? Dấu hiệu pháp lý? Hình phạt?
Truyền thống dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” vẫn luôn là một nét đẹp được gìn giữ và phát huy qua bao thế hệ. Bác của chúng ta đã từng nói: “Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân và gia đình liệt sĩ là những người đã có công với Tổ quốc, với nhân dân. Cho nên bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ”. Người luôn nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân ta bất kể trong hoàn cảnh nào cũng phải luôn ghi nhớ công ơn to lớn của các đồng chí thương binh liệt sĩ, tử sĩ, những người đã hy sinh tính mệnh hoặc bỏ lại một phần xương máu của mình trên chiến trường vì nền độc lập, tự do của dân tộc, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.
Đối với tử sĩ, nhà nước tôn trọng, bảo vệ và dành sự quan tâm đến những di vật mà họ để lại trước khi chết. Chính vì vậy mà hành vi chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ không chỉ vi phạm đạo đức đối với người đã mất mà còn là hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Vậy Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ là gì và được quy định như thế nào trong Bộ luật hình sự? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này.
Cơ sở pháp lý:
–
1. Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ là gì?
Tử sĩ là những người hoạt động thoát ly trong các tổ chức biên chế Nhà nước như: Quân nhân thuộc các đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, thương bệnh binh trong các trại thương binh, cán bộ, công nhân viên trong các cơ quan, công trường, xí nghiệp Nhà nước, trong khi làm nhiệm vụ bị chết vì địch giết, vì ốm đau tai nạn.
Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, xâm phạm chính sách thương binh, tử sĩ của Nhà nước ta bằng hành vi chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ.
2. Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ tiếng Anh là gì?
Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ trong tiếng Anh là “Appropriation or destruction of dead soldiers’ mementos”.
3. Quy định của Bộ luật hình sự về Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sỹ
Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ được quy định tại Điều 418 Bộ luật hình sự 2015 như sau:
“Điều 418. Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ
1. Người nào chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử s, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;
b) Chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của 02 tử sĩ trở lên.”
4. Dấu hiệu pháp lý
4.1. Khách thể của tội phạm
Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, xâm phạm chính sách thương binh, tử sĩ của Nhà nước ta.
4.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ.
Hành vi chiếm đoạt di vật của tử sĩ là hành vi lấy đi những vật của tử sĩ để lại, tuy không có giá trị về tài sản nhưng lại có giá trị về tinh thần đối với nhân thân của tử sĩ (như ảnh, huân chương, huy chương, nhật ký,…)
Hành vi chiếm đoạt di vật của tử sĩ có giá trị về tài sản hoặc có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì tùy từng trường hợp có thể cấu thành tội chiếm đoạt tài sản tương ứng theo quy định tại các điều khoản của Bộ luật hình sự.
Hành vi hủy hoại di vật của tử sĩ là hành vi cố ý làm cho di vật đó không còn nữa, bằng cách đốt, xé, tiêu hủy bằng hóa chất,…
4.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi đó.
4.4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực trách nhiệm hình sự và có dấu hiệu chủ thể đặc biệt.
Trong đó, năng lực trách nhiệm hình sự được hiểu là năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi của mình và điều khiển được hành vi theo đòi hỏi của xã hội. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và khả năng kìm chế hành vi đó để lựa chọn thực hiện hành vi khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Dấu hiệu chủ thể đặc biệt được quy định ở Điều 392 Bộ luật hình sự như sau;
– Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng;
Quân nhân tại ngũ (quân nhân chuyên nghiệp tại ngũ) là quân nhân chuyên nghiệp đang phục vụ trong lực lượng thường trực của Quân đội nhân dân.
Công nhân viên chức quốc phòng là công dân Việt Nam có trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ, được tuyển chọn, tuyển dụng vào Quân đội nhân dân theo vị trí việc làm hoặc chức danh nghề nghiệp mà không thuộc diện được phong quân hàm sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và hạ sĩ quan, binh sĩ.
– Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện;
Quân nhân dự bị (quân nhân chuyên nghiệp dự bị) trong thời gian tập trung huấn luyện là công dân Việt Nam có trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ đã đăng ký phục vụ trong ngạch dự bị của Quân đội nhân dân theo quy định của
– Dân quân, tự vệ phối thuộc với quân đội trong chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu;
Dân quân, tự vệ phối thuộc với quân đội trong chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu là công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ được giao cho đơn vị quân đội khi có nhu cầu chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu để tăng khả năng hoàn thành nhiệm vụ tác chiến của đơn vị quân đội.
– Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội là công dân được cấp có thẩm quyền ra quyết định trưng tập vào phục vụ Quân đội.
Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội bao gồm: công nhân Quốc phòng (do
Công dân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định vào phục vụ Quân đội khi có lệnh tổng động viên, động viên cục bộ; có chiến tranh; có nhu cầu chiến đấu để bảo vệ địa phương, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ mà chưa đến mức phải động viên cục bộ.
5. Hình phạt
Khung hình phạt tại khoản 1
Người phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Khung hình phạt tại khoản 2
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
– Là chỉ huy hoặc sĩ quan;
Phạm tội thuộc trường hợp người phạm tội là chỉ huy là trường hợp phạm tội mà người phạm tội là cán bộ quân đội có chức vụ từ trung đội trưởng và tương đương trở lên, được giao phụ trách cơ quan, đơn vị thuộc quyền, có những nhiệm vụ, quyền hạn trong phạm vi thuộc cơ quan, đơn vị đó.
Phạm tội thuộc trường hợp người phạm tội là sĩ quan là trường hợp phạm tội mà người phạm tội là cán bộ quân đội được Nhà nước phong quân hàm cấp uý, cấp tá, cấp tướng và tương đương. Sĩ quan bao gồm sĩ quan tại ngũ và sĩ quan dự bị.
– Chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của 02 tử s trở lên
Chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của 2 tử sĩ trở lên là chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của 2 tử sĩ trở lên 1 lần hoặc chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của 2 tử sĩ trở lên và những lần đó chưa bị xử lý hình sự, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, được đưa ra truy tố, xét xử cùng một lúc.
Trường hợp chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của 2 tử sĩ trở lên thực hiện từ 2 lần trở lên thì cùng với việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều b khoản 2 Điều 418 Bộ luật hình sự, người phạm tội còn phải bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 2 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.