Khái quát về tranh chấp lao động cá nhân? Quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân?
Ngày nay, khi dân số ngày càng lớn thì nhu cầu việc làm của người lao động cũng tăng cao, chính vì thể mà các tranh chấp xảy ra trong lĩnh vực lao động ngày càng trở nên phổ biến. Để bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong quan hệ lao động, pháp luật nước ta đã ban hành các quy định cụ thể về việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân. Việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân cũng là một vấn đề rất được quan tâm. Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ giúp người đọc tìm hiểu về tranh chấp lao động cá nhân và quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568
1. Khái quát về tranh chấp lao động cá nhân:
Tranh chấp lao động cá nhân được hiểu như sau:
Hiện nay, có hai loại tranh chấp lao động là tranh chấp lao động tập thể và tranh chấp lao động cá nhân. Tranh chấp lao động cá nhân được hiểu là một loại tranh chấp lao động về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động.
Tranh chấp lao động cá nhân có những đặc điểm cơ bản như sau:
– Chủ thể của tranh chấp lao động cá nhân: Đây là người lao động động hoặc nhóm người lao động. Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp xảy ra giữa người lao động hoặc một nhóm người lao động với người sử dụng lao động. Các tranh chấp lao động cá nhân với một nhóm người lao động tham gia sẽ có mục đích chính là để đòi quyền lợi cho riêng bản thân họ chứ không đòi quyền lợi chung cho tập thể người lao động. Vì vậy mà các tranh chấp lao động cá nhân mang tính đơn lẻ, không có tổ chức, quy mô và phức tạp như tranh chấp lao động tập thể.
– Nội dung của tranh chấp lao động cá nhân: Đây là những tranh chấp liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của một cá nhân người lao động hoặc có thể là của một nhóm người lao động. Căn cứ trên mục đích hướng tới là lợi ích, quyền của riêng cá nhân nên tranh chấp lao động cá nhân thường gắn với
– Một đặc điểm nữa của tranh chấp lao động cá nhân đó là tranh chấp giữa các bên có địa vị kinh tế – pháp lý không ngang nhau. Đặc điểm này dựa trên đặc điểm của quan hệ lao động khi một bên trong quan hệ là người sử dụng lao động thường có vị thế về mặt kinh tế, chính trị và hiểu biết pháp luật hơn người lao động.
2. Quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân:
Theo Điều 187
“Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bao gồm:
1. Hòa giải viên lao động;
2. Hội đồng trọng tài lao động;
3. Tòa án nhân dân.”
Như vậy, thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bao gồm hòa giải viên lao động, hội đồng trọng tài lao động và Toà án nhân dân.
2.1. Hoà giải viên lao động:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 184
Theo quy định của pháp luật hiện hang thì hoà giải viên lao động có thẩm quyền hoà giải tất cả các hanh chấp lao động, bao gồm cả tranh chấp lao động cá nhân, tập thể và tranh chấp phát sinh từ quan hệ liên quan đến quan hệ lao động.
Việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân thông qua hoà giải viên lao động là một thủ tục bắt buộc khi giải quyết theo quy định của pháp luật lao động 2019, trừ một số trường hợp cụ thể như sau:
– Các trường hợp xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc trường hợp bị đơn phương chấm dứt
– Các trường hợp bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động.
– Các tranh chấp giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động.
– Các tranh chấp liên quan đến bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động.
2.2. Hội đồng trọng tài lao động:
Hội đồng trọng tài lao động được thành lập theo quyết định của chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh gồm chủ tịch hội đồng, thư kí hội đồng và các trọng tài viên lao động theo quy định tại Điều 185
Diều 30, Điều 38 Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 cũng quy định về tiêu chuẩn của trọng tài viên: Trọng tài viên phải là người hiểu biết pháp luật, có kinh nghiệm trong lĩnh vực quan hệ lao động, có uy tín và công tâm. Khi đề cử trọng tài viên, không nhất thiết các cơ quan chuyên môn về la thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, công đoàn cấp tỉnh phải cử người của cơ quan, tổ chức mình mà có thể cử người khá đáp ứng đủ các tiêu chuẩn trọng tài viên theo quy định của pháp luật. Trọng tài viên làm việc theo chế độ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm. ’
Hội đồng trọng tài lao động theo quy định của pháp luật hiện hành sẽ có thẩm quyền giải quyết tất cả các loại tranh chấp lao động trên cơ sở sự thương lượng, đồng thuận của các bên hanh chấp.
Trong trường hợp cả hai bên không có thỏa thuận thì có thể yêu cầu hội đồng trọng tài lao động giải quyết tranh chấp lao động. Khi đã yêu cầu hội đồng trọng tài giải quyết thì tòa án không có thẩm quyền giải quyết. Hội đồng trọng tại sau khi thành lập và giải quyết tranh chấp sẽ ra quyết định về việc giải quyết tranh chấp. Quyết định này là phán quyết chung thẩm, nếu một trong các bên không thi hành quyết định giải quyết tranh chấp của ban trọng tài thì các bên có quyền yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp theo đúng quy định pháp luật.
2.3. Toà án nhân dân:
Toà án là cơ quan tài phán mang quyền lực nhà nước tiến hành giải quyết tranh chấp lao động theo trình tự, thủ tục luật định và phán quyết được đảm bảo thi hành bằng cưỡng chế nhà nước, hệ thống toà án chuyên trách với đội ngũ thẩm phán có trình độ chuyên môn xét xử được thành lập.
Thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết các tranh chấp lao quy định cụ thể tại
– Toà án có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người I dụng lao động phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên s động mà hòa giải thành nhưng các bên không thực hiện hoặc ực hiện không đúng, hòa giải không thành hoặc hết thời hạn hòa ải theo quy định của pháp luật về lao động mà hòa giải viên lao )ng không tiến hành hòa giải, trừ các tranh chấp lao động không ắt buộc phải qua thủ tục hòa giải..
– Toà án có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp lao động cá nhân mà hai bên thỏa thuận lựa chọn lội đồng trọng tài lao động giải quyết nhưng hết thời hạn theo quy lịnh của pháp luật về lao động mà ban trọng tài lao động không lược thành lập, ban trọng tài lao động không ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc một trong các bên không thi hành quyết định ,của ban trọng tài lao động thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết.
– Toà án có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp lao động tập thể về quyền theo quy định của pháp ) luật về lao động đã qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động mà hòa giải không thành, hết thời hạn hòa giải theo quy định của pháp luật về lao động mà hòa giải viên lao động không tiến hành i hòa giải hoặc một trong các bên không thực hiện
– Toà án có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp lao động tập thể về quyền mà hai bên thỏa thuận ý lựa chọn hội đồng trọng tài lao động giải quyết nhưng hết thời hạn theo quy định của pháp luật về lao động mà ban trọng tài lao động không được thành lập, ban trọng tài lao động không ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc một trong các bên không thi hành quyết định cùa ban trọng tài lao động thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết.
– Toà án có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp liên quan đến lao động bao gồm: Tranh chấp về học nghề, tập nghề; tranh chấp về cho thuê lại lao động; tranh chấp về quyền công đoàn, kinh phí công đoàn; tranh chấp về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
– Toà án có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp về bồi thường thiệt hại do đình công bất hợp pháp.
– Toà án có thẩm quyền giải quyết đối với các tác tranh chấp khác về lao động mà pháp luật có quy định.
Ngoài ra, thẩm quyền xét xử của toà án còn tuân theo các cấp, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người có yêu cầu. Theo đó, toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp lao động cá nhân theo quy định cụ thể tại Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sụ năm 2015 và toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp lao động tập thể và các yêu cầu lao động theo quy định tại Điều 37
Thủ tục giải quyết của Toà án đối với tranh chấp lao động cá nhân sẽ tương tự với thủ tục giải quyết vụ việc dân sự tại tòa án tuân theo quy định về trình tự, thủ tục tố tụng quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Như vậy, từ những phân tích cụ thể được nêu trên, ta nhận thấy, tranh chấp lao động cá nhân thông thường trải qua hai bước xử lý: một là hòa giải tại hòa giải viên lao động và thứ hai là giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại cơ quan tòa án có thẩm quyền hoặc tại hội đồng trọng tài lao động theo đúng quy định pháp luật.