Khái quát chung về bảo lãnh theo quy định của pháp luật? Quy định về quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh?
Trong quan hệ bảo đảm của các giao dịch dân sự thì các bên chủ thể có mối liên hệ với nhau trong đó đối với bảo lãnh thì bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh có quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nào đó và bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh phải tuân thủ quy định của pháp luật khi thực hiện bảo lãnh. Để hiểu thêm về các quy định về quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh của Bộ luật dân sự 2015 hãy theo dõi bài viết dưới đây của chúng tôi.
Cơ sở pháp lý:
Bộ Luật Dân Sự 2015
Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.6568
1. Khái quát chung về bảo lãnh theo quy định của pháp luật
1.1. Bảo lãnh là gì?
Căn cứ tại khoản 1 điều 335. Bảo lãnh Bộ Luật Dân Sự 2015 quy định:
“1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”
Như vậy căn cứ vào quy định nêu trên để tạo điều kiện cho các bên có thể giao kết hợp đồng và xác lập quan hệ nghĩa vụ mà vẫn bảo đảm được quyền lợi cho người có quyền ngay cả trong những trường hợp người có nghĩa vụ không có tài sản để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ đó, pháp luật quy định người khác có thể đứng ra cam kết trước người có quyền về việc thay người có nghĩa vụ để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ.
1.2. Chủ thể của bảo lãnh
Khác với cầm cố và thế chấp, trong bảo lãnh có xuất hiện thêm một chủ thể thứ ba ngoài bên có quyền và bên có nghĩa vụ, đó là bên bảo lãnh. Nếu tính chất bảo đảm trong cầm cố và thế chấp được gắn liền với tài sản bảo đảm thì trong quan hệ thế chấp tính chất bảo đảm được thể hiện thông qua sự cam kết thực hiện nghĩa vụ thay của người thứ ba đối với bên có quyền.
1.3. Đối tượng và phạm vi bảo lãnh
Đối tượng của bảo lãnh
Đối tượng của bảo lãnh theo quy định của pháp luật là các cam kết của người bảo lãnh với người nhận bảo lãnh. Bên cạnh đó để thực hiện được cam kết đó thì người bảo lãnh phải có tài sản hoặc công việc phù hợp để đáp lại lợi ích của bên nhận bảo lãnh trong trường hợp người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ.
Lợi ích mà các bên chủ thể trong một quan hệ nghĩa vụ hướng tới là lợi ích vật chất. Vì vậy người bảo lãnh phải bằng một tài sản hoặc bằng việc thực hiện một công việc thay cho người được bảo lãnh mới đảm bảo được quyền lợi cho người nhận bảo lãnh. Người bảo lãnh phải là người có khả năng thực hiện công việc đó. Người bảo lãnh phải lấy tài sản thuộc sở hữu của mình giao cho người nhận bảo lãnh xử lí.
Phạm vi bảo lãnh
Nghĩa vụ có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận và pháp luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi, tiền phạt và bồi thường thiệt hại. Nghĩa vụ được bảo đảm có thể là nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện. Trường hợp bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai thì nghĩa vụ được hình thành trong thời hạn bảo đảm là nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
1.4. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
Khoản 1 Điều 335 Bộ Luật Dâ Sự 2015 quy định bên bảo lãnh “sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
Theo đó, thời điểm mà bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ được xác định theo hai trường hợp sau:
Trường hợp 1: đói với thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm bằng bảo lãnh đến thời hạn thì có thể xác định việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh bắt đầu từ thời điểm này trong trường hợp các bên trong quan hệ bảo lãnh không có thỏa thuận khác về thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Như vậy, trong trường hợp này, bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ kể từ thời điểm bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đến hạn.
Trường hợp 2: Đối với bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định và lưu ý về thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh được xác định từ thời điểm có đủ căn cứ để xác định về việc bên được bảo lãnh không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ.
2. Quy định về quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh
Tại điều 339. Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh Bộ Luật Dân Sự 2015 quy định:
“1. Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ.
2. Bên nhận bảo lãnh không được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi nghĩa vụ chưa đến hạn.
3. Bên bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp bên nhận bảo lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ với bên được bảo lãnh.”
Theo quy định trên, nghĩa vụ của bên bảo lãnh sẽ phát sinh khi bên được bảo lãnh thực hiện không đúng nghĩa vụ hoặc bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ. Với tinh thần quy định này, bên nhận bảo lãnh sẽ có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong các trường hợp đó. Nếu các bên có thỏa thuận bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ thì việc chứng minh bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ thuộc về bên bảo lãnh. Bởi vì khi bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ thì bên nhận bảo lãnh sẽ yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ. Trường hợp này nếu bên bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì phải chứng minh bên được bảo lãnh có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
Theo nguyên tắc về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bên nhận bảo đảm chỉ được yêu cầu bên bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn. Vậy nên, khi chưa đến hạn bảo lãnh thì bên bảo lãnh không có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ với mình. Điều 335 BLDS năm 2015 quy định bên bảo lãnh “sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ nếu đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Như vậy, thời điểm mà bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ được xác định là khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp bảo lãnh đến hạn. Hợp đồng bảo lãnh phát sinh đồng thời và tồn tại cùng với hợp đồng chính, vì vậy, nếu các bên không có thỏa thuận khác thì khi đến thời hạn này, bên nhận bảo lãnh được quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ với mình. Tuy nhiên, điều kiện là bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc không thực hiện nghĩa vụ. Nếu đến thời hạn, mà bên được bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ thì bên được bảo lãnh không được yêu cầu bên bảo lãnh tiếp tục thực hiện nghĩa vụ với mình. Bên cạnh đó, nếu các bên thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ bảo lãnh nghĩa vụ nếu bên được bảo lãnh không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ, thì dù thời hạn bảo lãnh đã đến và bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ dù đủ điều kiện để thực hiện, thì bên nhận bảo lãnh cũng không được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ.
Thời hạn thực hiện nghĩa vụ của bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Nghĩa vụ chỉ bị coi là vi phạm khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà một trong các bên không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ. Do đó, khi chưa đến hạn thực hiện nghĩa vụ của bên được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh không có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh.
Khi nghĩa vụ của bên bảo lãnh phát sinh, họ sẽ phải thực hiện nghĩa vụ của mình với bên nhận bảo lãnh. Tuy nhiên, giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh có quan hệ nghĩa vụ khác với nhau. Theo đó, bên nhận bảo lãnh đang là bên có nghĩa vụ còn bên bảo lãnh là bên có quyền. Theo quy định, nghĩa vụ của hai bên chủ thể này có thể bù trừ cho nhau khi thỏa mãn:
– Cả hai nghĩa vụ cùng đến hạn;
– Đối tượng của hai nghĩa vụ cùng loại;
– Nghĩa vụ không có trarih chấp;
– Nghĩa vụ không thuộc trường hợp không được bù trừ.
Ví dụ, A bảo lãnh cho B vay của X số tiền là 2 tỷ đồng. Đến hạn hợp đồng vay, B mới thực hiện trả được khoản tiền là 1,2 tỷ đồng. X yêu cầu A thực hiện thanh toán số tiền còn lại 800 triệu đồng. Tuy nhiên, trước đó, A được X thuê vận chuyển hàng hóa và số tiền X phải thanh toán theo hợp đồng cho A là 1 tỷ. Lúc này, A và X có thể thực hiện việc bù trừ nghĩa vụ cho nhau. Theo đó, X sẽ phải thanh toán giá trị chênh lệch sau khi bù trừ nghĩa vụ là 200 triệu đồng.
Trên đây là thông tin chúng tôi cung cấp về nội dung quy định về quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh và các thông tin pháp lý khác dựa trên quy định của pháp luật hiện hành.