Pháp luật Việt Nam đã có quy định về nhận diện sản phẩm với các thông tin sản phẩm chứa đựng trong nhãn hiệu trong Luật sở hữu trí tuệ. Quy định về nhận diện sản phẩm trong thương mại điện tử?
Nhãn hiệu hàng hóa, với các thông tin trên đó để có thể nhận diện sản phẩm, là một tài sản trí tuệ quý giá, có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh, cạnh tranh và phát triển thị trường của doanh nghiệp sản xuất hàng hóa hay cung cấp dịch vụ trong thương mại điện tử.
Sản phẩm được nhận diện thông qua nhãn hiệu hàng hóa với các thông tin trên đó. Việt Nam là quốc gia đang từng bước đi vào nền kinh tế thị trường và là thành viên của công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp và đang thực hiện các quy định của Hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại (TRIPS) nên có trách nhiệm phải thực hiện các quy định về bảo hộ nhãn hiệu trong các điều ước quốc tế này.
Pháp luật Việt Nam đã có quy định về nhận diện sản phẩm với các thông tin sản phẩm chứa đựng trong nhãn hiệu trong Luật sở hữu trí tuệ. Việt Nam không có những quy định cụ thể về nhận diện nhãn hiệu nổi tiếng nhưng có dành cho những nhãn hiệu loại này sự bảo hộ bước đầu: không chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa có các dấu hiệu trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hóa của người khác được coi là nổi tiếng cả trong trường hợp những nhãn hiệu này chưa đăng ký bảo hộ tại Việt Nam.
Năm 1992, Cục Sở hữu Công nghiệp đã bác bỏ đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá “McDonald‘s” cho một công ty Australia làm sản phẩm đồ ăn nhanh, dịch vụ ăn uống và các nhóm sản phẩm khác. Nhận diện sản phẩm qua nhãn hiệu với các thông tin sản phẩm chứa đựng trong đó là một trong những hình thức bảo hộ được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi 2009; 2019) nhằm kịp thời nội luật hóa các nghĩa vụ phải thi hành ngay trong Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 14/01/2019.
Một trong những mục tiêu của chế định nhận diện sản phẩm qua nhãn hiệu có trong Luật sở hữu trí tuệ là cố gắng đảm bảo cân bằng lợi ích giữa chủ thể với đối thủ cạnh tranh và đảm bảo người tiêu dùng không bị nhầm lẫn về nguồn gốc thương mại, đặc biệt là trong thời đại bùng nổ thương mại điện tử. Quy định của pháp luật liên quan thông tin trên nhãn hiệu để nhận diện sản phẩm theo Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi số 36/2009/QH12 tại Điều 4 giải thích từ ngữ từ các khoản 16 đến khoản 21 với các khái niệm về Nhãn hiệu, Nhãn hiệu tập thể; Nhãn hiệu chứng nhận, Nhãn hiệu liên kết và Nhãn hiệu nổi tiếng.
Như vậy, theo quy định pháp luật Việt Nam, thông tin sản phẩm hay các dấu hiệu muốn trở thành nhãn hiệu và được pháp luật bảo vệ phải đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo hộ liên quan đến chức năng cơ bản của nhận diện sản phẩm qua nhãn hiệu nhằm phân biệt hàng hoá, dịch vụ của nhà sản xuất này với hàng hoá, dịch vụ của nhà sản xuất khác và liên quan đến tính ảnh hưởng của nhãn hiệu.
Luật sở hữu trí tuệ Việt nam tuân thủ hoàn toàn Điều 6 (quinquies) của Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp quy định nhãn hiệu được bảo hộ. Một đăng ký nhãn hiệu có thể bị từ chối nếu không có bất kì một đặc tính phân biệt nào hoặc trái với đạo đức hoặc trật tự công cộng và cụ thể là có tính lừa dối công chúng. người tiêu dùng dùng nhận thức được rất rõ nguồn gốc của các nhãn hiệu nổi tiếng, do đó, khả năng xảy ra nhầm lẫn về nguồn gốc giữa hàng hóa hoặc dịch vụ gắn nhãn hiệu nổi tiếng với hàng hoá hoặc dịch vụ gắn nhãn hiệu thông thường là ít xảy ra hơn với các nhãn hiệu thông thường với nhau.
Đặc biệt, Luật sở hữu trí tuệ 42/2012/QH14 đã cụ thể hóa các nội dung liên quan đến nhận diện sản phẩm qua nhãn hiệu bằng sở hữu trí tuệ tập trung vào 5 nhóm vấn đề lớn, bao gồm: (1) cách thức nộp đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp; (2) sáng chế; (3) nhãn hiệu; (4) chỉ dẫn địa lý và (5) bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Các vấn đề này đều liên quan tổng thể để nhận diện sản phẩm mà trong đó sản phẩm được nhận diện qua nhãn hiệu hàng hóa được cụ thể hóa trong Luật sở hữu trí tuệ.
Khi một đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá được nộp tại Cục Sở hữu trí tuệ, sau khi xem xét về hình thức cũng như tính hợp lệ của đơn, Cục sẽ tiếp nhận đơn và thực hiện xem xét nội dung. Một trong những vấn đề được xét tới là khả năng phân biệt của nhãn hiệu được quy định. Trong đó, nhãn hiệu không được coi là có khả năng phân biệt nếu nó là một dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được coi là nổi tiếng của người khác đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ không tương tự, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng ký nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng.
Với Luật sở hữu trí tuệ, quy định nhận diện sản phẩm qua nhãn hiệu hàng hóa như vậy là phù hợp với thực tế cũng như thông lệ trên thế giới. Tuy nhiên, Luật sở hữu trí tuệ chưa quy định cụ thể những dấu hiệu như thế nào thì được coi là “trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi tiếng. Khắc phục điều này, Điều 87 và Điều 90 Luật sở hữu trí tuệ 2005 đã có hướng dẫn cụ thể.
Khuyến nghị chung của Tổ chức sở hữu trí tuệ Thế giới WIPO về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng đối với nhãn hiệu nổi tiếng, dấu hiệu bị nghi ngờ bị coi là yếu tố xâm phạm nếu: hàng hoá, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ đáp ứng điều kiện bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự về bản chất hoặc có liên hệ về chức năng, công dụng và có cùng kênh tiêu thụ với hàng hoá, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ. Hoặc hàng hoá, dịch vụ không trùng, không tương tự, không liên quan tới hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng nhưng có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng .
Quy định luật pháp liên quan nhận diện sản phẩm qua nhãn hiệu có mục đích của việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng không chỉ là ngăn ngừa hành vi sử dụng gây nhầm lẫn mà còn là ngăn ngừa hành vi sử dụng có thể làm tổn hại đến danh tiếng của nhãn hiệu nổi tiếng. Do đó, quy định của Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam chưa đáp ứng được mục đích này. Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam xuất phát từ hệ quả rất chung được áp dụng cho mọi loại nhãn hiệu. Hệ quả thứ hai trong Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng chỉ là mở rộng của hệ quả thứ nhất đó là khả năng gây ấn tượng sai lệch mối quan hệ giữa chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng với người sử dụng.
Việt Nam hiện nay có tham khảo “Khuyến nghị chung của WIPO về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng”, những nhãn hiệu như vậy được gọi là nhãn hiệu gây xung đột. Theo đó, nhãn hiệu sẽ bị coi là gây xung đột với nhãn hiệu nổi tiếng khi nhãn hiệu này, hoặc một phần của nhãn hiệu này, có chứa sự sao chép, sự bắt chước, sự phiên dịch, hoặc sự phiên chữ của nhãn hiệu nổi tiếng, có khả năng gây nhầm lẫn, nếu nhãn hiệu, hoặc phần cơ bản của nhãn hiệu này, được sử dụng, là đối tượng của đơn đăng ký hoặc đã được đăng ký đối với loại hàng hóa trùng hoặc tương tự với hàng hóa mang nhãn hiệu, không kể đến các loại hàng hóa mang nhãn hiệu này là đối tượng của đơn đăng ký hoặc đã được đăng ký và khi có ít nhất một trong các điều kiện sau đây:
– Sự sử dụng nhãn hiệu đó biểu thị một mối liên hệ giữa hàng hóa hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu, là đối tượng của đơn đăng kí, hoặc đã được đăng kí, và của chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng, và có nguy cơ đe dọa lợi ích của họ;
– Sự sử dụng nhãn hiệu đó có khả năng làm suy yếu hoặc lu mờ theo cách không công bằng những đặc tính khác biệt của nhãn hiệu nổi tiếng;
– Sự sử dụng nhãn hiệu đó có thể sẽ gây bất lợi cho những đặc tính khác biệt của nhãn hiệu nổi tiếng .
Thực trạng pháp luật về thời hạn bảo hộ, pháp luật Việt Nam cũng dành cho những nhãn hiệu loại này một ưu đãi đặc biệt: quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ vô thời hạn tính từ ngày nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng ghi trong quyết định công nhận nhãn hiệu nổi tiếng. Tuy vậy, ta cũng không loại trừ trường hợp một nhãn hiệu nổi tiếng không được bảo hộ nữa. Đó là khi nhãn hiệu không còn nổi tiếng nữa, hay nói cách khác là khi các tiêu chí làm nhãn hiệu đó trở thành nổi tiếng không còn trên thực tế hoặc nhãn hiệu đã trở thành tên gọi chung của một loại sản phẩm, dịch vụ nhất định (trường hợp này còn gọi là sự lu mờ nhãn hiệu).
Trong hệ thống pháp luật về nhận diện sản phẩm qua nhãn hiệu nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng của Việt Nam chưa đề cập đến các biện pháp cũng như chế tài ngăn cấm việc làm lu mờ nhãn hiệu. Việt Nam cũng chưa có quy định chấm dứt sự tồn tại của nhãn hiệu đã đăng ký mà đã mất chức năng nhãn hiệu. người tiêu dùng nhận thức được rất rõ nguồn gốc của các nhãn hiệu nổi tiếng và nhận diện chúng, do đó, khả năng xảy ra nhầm lẫn về nguồn gốc giữa hàng hoá hoặc dịch vụ gắn nhãn hiệu nổi tiếng với hàng hoá hoặc dịch vụ gắn nhãn hiệu thông thường là ít xảy ra hơn với các nhãn hiệu thông thường với nhau và chưa có nguyên tắc khái quát và đầy đủ nhằm giải quyết xung đột giữa quyền nhãn hiệu và các quyền sở hữu trí tuệ khác.
Việc phản ảnh các vi phạm và chế tài được quy định tại Điểm d Khoản 3 Điều 3 trong Nghị định 99/2013/NĐ-CP và cụ thể trong các Điều khác sẽ là rất tốt nếu đây là điều kiện quản lý nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, và rất không phù hợp nếu đây cơ sở để cạnh tranh không lành mạnh nảy sinh vì quy định hiện hành không giới hạn những người có quyền phản ánh website có dấu hiệu vi phạm pháp luật, cũng không quy định chi tiết quy chế xác thực, dẫn tới rủi ro các đối thủ cạnh tranh lợi dụng phản ánh lẫn nhau.
Theo Khoản 12 Điều 3 Nghị định 43/2017/NĐ-CP về nhãn hàng hóa, nhận diện sản phẩm tại Việt Nam hiện nay còn thể hiện thông qua thành phần bản chất của sản phẩm trên bao bì với các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan thành phần của hàng hóa mà trong đó thành phần của hàng hoá phải thể hiện rõ các nguyên liệu “kể cả chất phụ gia dùng để sản xuất ra sản phẩm hàng hoá và tồn tại trong thành phẩm kể cả trường hợp hình thức nguyên liệu đã bị thay đổi”. Các văn bản quy phạm pháp luật cũng quy định thể hiện thành phần định lượng của sản phẩm liên quan “lượng của mỗi loại nguyên liệu kể cả chất phụ gia dùng để sản xuất ra hàng hoá đó”.
Nghị định 89/2006/NĐCP thì xác định rõ các quy định về nhận diện sản phẩm đối với thành phần định tính và định lượng của sản phẩm
– Ghi thành phần là ghi tên nguyên liệu kể cả chất phụ gia dùng để sản xuất ra hàng hoá và tồn tại trong thành phẩm kể cả trường hợp hình thức nguyên liệu đã bị thay đổi. Nếu tên của thành phần được ghi trên nhãn hàng hoá để gây sự chú ý đối với hàng hóa thì thành phần đó bắt buộc phải ghi định lượng.
– Ghi thành phần định lượng là ghi thành phần kèm định lượng của từng thành phần. Tuỳ theo tính chất, trạng thái của hàng hoá, thành phần định lượng được ghi là khối lượng của thành phần đó có trong một đơn vị sản phẩm hoặc ghi theo một trong các tỷ lệ: khối lượng với khối lượng, khối lượng với thể tích; thể tích với thể tích; phần trăm khối lượng, phần trăm thể tích.
Liên quan mật thiết với nhận diện sản phẩm, Nghị định 89/2006/NĐCP quy định ghi thành phần, thành phần định lượng đối với một số loại hàng hoá:
a) Đối với thực phẩm phải ghi thành phần theo thứ tự từ cao đến thấp về khối lượng. Nếu thành phần là chất phụ gia, phải ghi tên nhóm chất phụ gia, tên chất phụ gia, mã số quốc tế (nếu có); trường hợp chất phụ gia là hương liệu, chất tạo ngọt, chất tạo màu ngoài các nội dung trên còn phải ghi thêm chất đó là chất tự nhiên” hay chất tổng hợp“;
b) Đối với thuốc dùng cho người, vắc xin, sinh phẩm y tế, chế phẩm sinh học, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phải ghi thành phần và hàm lượng các hoạt chất;
c) Đối với mỹ phẩm phải ghi thành phần bao gồm cả các chất phụ gia;
d) Đối với đồ gia dụng kim khí, đồ dùng được chế tạo từ một loại nguyên liệu chính quyết định giá trị sử dụng thì phải ghi tên thành phần nguyên liệu chính cùng với tên hàng hoá và không phải ghi thành phần và định lượng.
Tuy nhiên Phụ lục III Nghị định 89/2006/NĐ CP quy định cách ghi khác với cách ghi trong Điều 18 về thành phần, thành phần định lượng của hàng hoá để người tiêu dùng nhận diện sản phẩm.
Như vậy, Việt Nam đã có các văn bản quy định về thông tin sản phẩm hay các dấu hiệu muốn trở thành nhãn hiệu và được pháp luật bảo vệ, đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo hộ liên quan đến chức năng cơ bản của nhãn hiệu để người tiêu dùng có thể nhận diện được sản phẩm, từ đó phân biệt hàng hoá, dịch vụ của nhà sản xuất này với hàng hoá, dịch vụ của nhà sản xuất khác.