Người đại diện là gì? Quy định về người đại diện trong tố tụng hành chính? Quy định về người đại diện trong tố tụng hành chính có bất lợi cho đương sự?
Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính, các đương sự khi tham gia tố tụng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau, trong đó các đương sự theo quy định có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của
Luật sư
Cơ sở pháp lý: Luật Tố tụng hành chính 2015
1. Người đại diện là gì?
Theo quy định tại Bộ luật dân sự, đại diện được hiểu là việc một người đucowj gọi là người đại diện nhân danh và vì lợi ích của người khác được gọi là người được đại diện thực hiện việc xác lập hoặc thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.
Không chỉ cá nhân, mà pháp nhân (bao gồm công ty hoặc tổ chức xã hội …) hoặc các chủ thể khác đều có quyền và có thể thực hiện việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự ví dụ như mua bán hàng hóa, ký kết hợp đồng cho thuê nhà… thông qua người đại diện của mình.
Tuy nhiên, theo quy định thì cá nhân không được để người khác đại diện cho mình trong trường hợp mà pháp luật quy định cá nhân đó phải tự mình thực hiện việc xác lập hoặc tự mình thực hiện giao dịch đó. Thông thường, đây là những giao dịch dân sự liên quan đến quyền nhân thân, đây là những giao dịch vốn có đặc tính không thể chuyển giao quyền thực hiện cho người khác được.
Như vậy, người đại diện theo pháp luật đucowj hiểu là người do pháp luật hoặc người do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định để đại diện cho một cá nhân hay đại diện cho một tổ chức nào đó thực hiện việc xác lập hoặc thực hiện các giao dịch hay hành vi dân sự, hành chính… ví dụ như ký kết hợp đồng, tham dự phiên tòa,…
2. Quy định về người đại diện trong tố tụng hành chính
Người đại diện trong tố tụng hành chính đã được quy định cụ thể tại Điều 60 Luật Tố tụng hành chính 2015.
Luật Tố tụng hành chính quy định người đại diện trong tố tụng hành chính bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền.
Người đại diện trong tố tụng hành chính bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền.
– Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng hành chính có thể là một trong những người sau đây, trừ trường hợp người đó bị hạn chế quyền đại diện theo quy định của pháp luật:
+ Cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
+ Người giám hộ đối với người được giám hộ;
+ Người đứng đầu cơ quan, tổ chức do được bổ nhiệm hoặc bầu theo quy định của pháp luật;
+ Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình;
+ Tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác;
+ Những người khác theo quy định của pháp luật.
– Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền bằng văn bản.
Hay nói cách khác, Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị mất năng lực hành vi dân sự, được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền bằng văn bản.
Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia tố tụng hành chính thì các thành viên có thể ủy quyền cho một thành viên hoặc người khác làm đại diện tham gia tố tụng hành chính.
Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này.
– Người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính chấm dứt việc đại diện theo quy định của Bộ luật Dân sự.
– Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng hành chính thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính của đương sự mà mình là đại diện.
Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính thực hiện toàn bộ các quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính của người ủy quyền. Người được ủy quyền không được ủy quyền lại cho người thứ ba.
Những người sau đây không được làm người đại diện:
– Nếu họ là đương sự trong cùng một vụ án với người được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện;
– Nếu họ đang là người đại diện trong tố tụng hành chính cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ án.
– Cán bộ, công chức trong các ngành Toà án, Kiểm sát, Thanh tra, Thi hành án, công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an không được làm người đại diện trong tố tụng hành chính, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật.
3. Quy định về người đại diện trong tố tụng hành chính có bất lợi cho đương sự?
Quy định tại Khoản 3 Điều 60 về người đại diện là một trong những điểm mới của Luật tố tụng hành chính năm 2015. Theo đó, trong trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người bị kiện người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì theo quy định của pháp luật, người bị kiện chỉ quyền được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Ngoài ra, người được ủy quyền bắt buộc phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, đồng thời thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Mục đích của quy định về người đại diện trong Luật tố tụng hành chính theo lý giải của các nhà lập pháp là nhằm mục đích để bên bị kiện đánh giá chính xác, đầy đủ về quyết định hành chính và hành vi hành chính trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, từ đó quyết định về việc sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ hoặc quyết định đối thoại để giải quyết vụ án đối với người khởi kiện. Trong trường hợp ủy quyền cho cán bộ chuyên môn tham gia tố tụng thì bên bị kiện không có thẩm quyền quyết định những vấn đề trên. Nhìn từ góc độ này có thể thấy quy định về người đại diện tại Khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015 có ý nghãi rất tích cực, nó thể hiện sự tiến bộ trong hoạt động lập pháp.
Tuy nhiên, trên thực tiễn hoạt động công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính cho thấy Tòa án rất khó triệu tập người bị kiện đến làm việc hoặc tham gia phiên tòa tố tụng. Tại các phiên tòa hầu hết người bị kiện trong vụ án đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Theo quy định của Luật tố tụng hành chính, trong trường hợp đương sự của vụ án vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt thì Tòa án thực hiện xét xử vắng mặt họ. Việc người bị kiện vắng mặt tại phiên tòa đôi khi là do yếu tố khách quan (có thể vì là lãnh đạo nên rất nhiều công việc phải giải quyết, nguyên nhân này có vẻ không phải là chủ yếu); tuy nhiên mặt khác, vì là lãnh đạo nên đa số người bị kiện hoặc người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện đều không muốn tham gia hoặc rất ngại đến Tòa án để tranh tụng với các đương sự khác trong vụ án.
Nguyên nhân chính là bởi vì nhiều lãnh đạo chỉ nắm được tổng thể các nội dung về vụ án chứ hầu hết đều không nắm được cụ thể, tường tận các nội dung liên quan đến yêu cầu khởi kiện của vụ án như là cán bộ chuyên môn, đặc biệt là quy định về trình tự, thủ tục và căn cứ pháp lý để ban hành quyết định giải quyết vụ án hành chính, do đó họ rất ngại đến tòa để tranh luận với người khởi kiện trong vụ án hành chính bởi lẽ nếu người khởi kiện đưa ra lý lẽ mà không biết tranh luận, đối đáp như thế nào thì họ sẽ rất mất mặt cho nên cách tốt nhất là có đơn xin xét xử vắng mặt và mặc kệ Tòa án muốn xét xử như thế nào thì xét xử. Điều này vô hình chung đã gây ra khó khăn cho việc giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án. Và sau cùng, người phải chịu bất lợi nhiều nhất trong vụ án chính là người khởi kiện và các đương sự khác trong vụ án hành chính bởi vì họ không được thực hiện quyền tranh tụng công khai tại phiên tòa.
Để khắc phục bất cập này, cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định tại Khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015 theo chiều hướng cho phép người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc cho phép người đứng đầu cơ quan, tổ chức được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện tham gia phiên tòa hoặc cho cán bộ chuyên môn trực tiếp liên quan đến lĩnh vực có quyết định hành chính, có hành vi hành chính bị khởi kiện tham gia tố tụng tại tòa án đồng thời quy định trách nhiệm của người bị kiện bắt buộc phải tham gia phiên tòa. Trong trường hợp người bị kiện vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa xét xử, không được xét xử vắng mặt người bị kiện. Có như vậy thì mới bảo đảm thực hiện được nguyên tắc tranh tụng theo quy định tại Điều 18 Luật tố tụng hành chính năm 2015. Đồng thời góp phần nâng cao trách nhiệm của cơ quan hành chính đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính do cơ quan hành chính ban hành hoặc thực hiện.