Quy định về người có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn? Các trường hợp ly hôn? Ai là người có quyền ly hôn? Ai có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn?
Trong cuộc sống thường ngày thì khi các bên có đủ điều kiện để thực hiện việc kết hôn và chung sống với nhau như vợ chồng theo như quy định của pháp
Luật sư tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568
Cơ sở pháp lý:
–
Mục lục bài viết
1. Quy định về người có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn:
Trong thực tế thì ly hôn được xác định là hành vi chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng. Do đó, trên cơ sở quy định tại Điều 51
“Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”
Từ quy định nêu ra ở trên có thể thấy rằng, pháp luật Việt Nam luôn ưu tiên quyền quyết định trước tiên hết làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ hôn nhân là thuộc về vợ chồng trong quan hệ hôn nhân đó. Cũng chính vì thế mà quyền yêu cầu giải quyết ly hôn là quyền của mỗi người vợ hoặc chồng có yêu cầu ly hôn với chồng hoặc vợ của mình dựa trên ý chí tự nguyện. Tiếp theo đó là quyền của cha, mẹ, người thân thích với vợ hoăc chồng mà người vợ hoặc chồng đó đang bị bênh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng hoặc vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Trong quan hệ hôn nhân thì pháp luật đã có quy định về việc vợ chồng bình đẳng với nhau về quyền yêu cầu ly hôn. Do đó, trong suốt thời kì hôn nhân, vợ chồng đều có quyền ly hôn như nhau, không ai được cưỡng ép, lừa dối, cản trở vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng trong việc thực hiện quyền yêu cầu ly hôn. Tuy nhiên nhằm bảo vệ lợi ích của phụ nữ, của trẻ em và của xã hội, khoản 3 Điều 51
Tuy nhiên, khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quy định một trường hợp ngoại lẹ cho phép cha mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu ly hôn. Cha mẹ, người thân thích khác của vợ, chồng chỉ có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp đặc biệt là khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Quy định này giúp giải quyết được yêu cầu thực thế về việc bảo vệ quyền, lợi ích của bên vợ, chồng bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể làm chủ được nhận thức, hành vi của mình, đồng thời, là nạn nhân của bạo lực gia đình do vợ, chồng gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng, tinh thần của họ.
Vợ chồng bình đẳng với nhau về quyền yêu cầu ly hôn. Trong suốt thời kì hôn nhân, vợ chồng đều có quyền ly hôn như nhau, không ai được cưỡng ép, lừa dối, cản trở vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng trong việc thực hiện quyền yêu cầu ly hôn. Tuy nhiên nhằm bảo vệ lợi ích của phụ nữ, của trẻ em và của xã hội, khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định hạn chế quyền ly hôn của người chồng trong trường hợp vợ đang có thai , sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”,
Trong thực tế, nhiều người cho rằng chỉ khi đứa con mà người vợ đang mang thai, sinh con hoặc nuôi dưới mười hai tháng tuổi là con của người chồng hiện tại đó thì người chồng mới không có quyền yêu cầu ly hôn còn nếu đứa con của người vợ là con của một người đàn ông khác người chồng hiện tại thì người chồng vẫn có quyền ly hôn. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì dù đứa trẻ đó là con của ai thì người chồng vẫn không có quyền yêu cầu ly hôn khi người vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi. Quy định này nhằm bảo vệ bà mẹ, đặc biệt là bảo vệ thai nhi và trẻ nhỏ, tránh những tác động tiêu cực đến bà mẹ, gây ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển bình thường của thai nhi và trẻ nhỏ. Đây là một quy định mang tính nhân văn của pháp luật.
Mặt khác, nếu trong trường hợp người vợ đang mang thai, sinh con hoặc nuôi con dưới mười hai tháng tuổi mà người vợ cảm thấy việc duy trì quan hệ kết hôn đối với người chồng của mình trong thời điểm hiện tại gây tác động xấu đến mình, ảnh hưởng tiêu cực đến thai nhi hoặc đứa trẻ dưới mười hai tháng tuổi thì pháp luật hiện hành cũng có đưa ra các quy định về việc người mẹ vẫn có quyền yêu cầu ly hôn hoặc thuận tình ly hôn theo yêu cầu của người chồng.
2. Các trường hợp ly hôn:
Trên cơ sở quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về các trường hợp ly hôn và căn cứ ly hôn trong từng trường hợp cụ thể. Khi vợ hoặc chồng trong quan hệ hôn nhân đã được xác lập trước đó có quyền ly hôn cụ thể như sau:
Một là, trường hợp thuận tình ly hôn
Hai là, trường hợp đơn phương ly hôn
Ba là, trường hợp ly hôn với người bị tuyên bố mất tích
Với mỗi trường hợp ly hôn như trên, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 lại quy định các căn cứ ly hôn khác nhau và người có quyền yêu cầu ly hôn khác nhau. Do đó, trong từng trường hợp khác nhau thì quyền yêu cầu giải quyết ly hôn cụ thể như sau:
Trường hợp thuận tình ly hôn thì người có quyền yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn là cả hai bên vợ chồng. Do đó, sau khi cả hai bên vợ chồng đã thỏa thuận và thống nhất được về việc chấm dứt quan hệ hôn nhân, về quyền nuôi con và chia tài sản khi ly hôn thì có quyền yêu cầu tòa án công nhận thuận tình ly hôn.
Trường hợp đơn phương ly hôn thì người có quyền yêu cầu đơn phương ly hôn là một trong hai bên vợ hoặc chồng. Nếu có căn cứ cho rằng phía đối phương có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, dẫn tới hôn nhân trầm trọng, không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được thì có quyền yêu cầu đơn phương ly hôn. Trong quá trình một bên vợ chồng thực hiện quyền ly hôn đơn phương của mình thì quyền yêu cầu ly hôn đơn phương này sẽ không phụ thuộc vào ý chí của người vợ hoặc chồng còn lại. Mặt khác thì pháp luật Hôn nhân và gia đình cũng đã co đưa ra quy định về quyền ly hôn đơn phương được áp dụng với trường hợp một bên vợ hoặc chồng bị tuyên bố mất tích và người còn lại muốn yêu cầu ly hôn. Khi đó, nếu có yêu cầu hợp pháp của một bên về việc ly hôn với người đã bị tuyên bố mất tích, Tòa án sẽ thụ lý và giải quyết ly hôn.
Bên cạnh quy định về quyền yêu cầu ly hôn của một trong hai bên vợ hoặc chồng hoặc yêu cầu của cả hai bên, pháp luật còn quy định dành quyền yêu cầu ly hôn cho cha, mẹ, người thân thích khác của vợ hoặc chồng. Khi đó, nếu có căn cứ cho rằng một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ thì cha, mẹ hoặc người thân thích khác của người đó có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Do đó, quy định này là hợp lý để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho một bên vợ/chồng, đảm bảo ổn định về tinh thần, sức khỏe và cả tính mạng cho bên vợ hoặc chồng bị bạo lực và không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
Như vậy, có thể thấy rằng, để quyết định phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ hôn nhân thì chủ thể chính có thể thực hiện việc này là vợ hoặc chồng được xác lập và quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành của nước ta. Chính vì vậy mà trong trường hợp chấm dứt quan hệ hôn nhân hay còn được pháp luật quy định là việc ly hôn của các cặp vợ chồng. Bên cạnh việc quyết định về tình trang ly hôn của các chủ thể trong quan hệ hôn nhân là vợ chồng thì còn có cha, mẹ, người thân thích khác của vợ hoặc chồng mà pháp luật này quy định có quyền yêu cầu Tòa án chấp thuận ly hôn.