Hiện nay, trong quá trình giải quyết tố tụng dân sự, chứng cứ và trách nhiệm chứng minh của đương sự là rất quan trọng. Vậy quy định của pháp luật liên quan về vấn đề này được thể hiện ra sao?
Mục lục bài viết
1. Quy định về chứng cứ trong tố tụng dân sự:
1.1. Thế nào là chứng cứ:
Theo quy định tại Điều 93
Chứng cứ sau khi thu thập được nếu đáp ứng đủ điều kiện sẽ được Tòa án sử dụng để làm căn cứ xác định những tình tiết khách quan của vụ án hay là cơ sở xác định tính hợp pháp của những yêu cầu hay sự phản đối của đương sự.
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau:
– Vật chứng.
– Lời khai của đương sự.
– Lời khai của người làm chứng.
– Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
– Kết luận giám định.
– Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
– Văn bản công chứng, chứng thực.
– Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
– Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
– Các nguồn khác theo quy định của pháp luật.
1.2. Quá trình xác minh, thu thập chứng cứ:
Thứ nhất, trách nhiệm thu thập chứng cứ thuộc về cá nhân, tổ chức, cơ quan, việc thu thập chứng cứ thông qua các biện pháp sau đây:
– Thu thập các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; thông điệp dữ liệu điện tử:
+ Tài liệu đọc đảm bảo phải là bản chính thì mới được coi là chứng cứ; không có bản chính thì phải là bản sao có công chứng, chứng thực.
+ Tài liệu nghe được, nhìn được phải xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu.
– Thu thập vật chứng: là những hiện vật gốc có liên quan đến vụ việc, ví dụ như con dao,…
– Yêu cầu cá nhân, tổ chức, cơ quan cho sao chép hoặc tiến hành cung cấp các tài liệu có liên quan đến các vụ việc đang được giải quyết khi đó cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang lưu giữ, quản lý.
– Chứng thực chữ ký của người làm chứng tại Ủy ban nhân dân cấp xã.
– Xác định đối tượng làm chứng và lấy xác nhận của những người làm chứng.
– Trường hợp đương sự không thể thu thập tài liệu, chứng cứ thì có thể yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ.
– Yêu cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định, định giá tài sản.
– Theo quy định của pháp luật, nếu cần thiết thì có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện công việc khác.
Thứ hai, biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án:
– Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng: lưu ý để được coi là nguồn chứng cứ thì những lời khai của đương sự, người làm chứng phải được ghi lại qua băng ghi âm; ghi bằng văn bản; băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh như video, clip,…
– Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng.
– Trưng cầu giám định: có kết luận giám định và kết luận này được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
– Xem xét, thẩm định tại chỗ.
– Định giá tài sản: khi có kết quả định giá tài sản nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng trình tự thì được coi là chứng cứ.
– Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ.
– Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú.
– Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự.
1.3. Cách thức giao nộp tài liệu, chứng cứ:
Theo quy định tại Điều 96
Thẩm phán có quyền yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ nếu trong trường hợp tài liệu, chứng cứ đã nhận được của đương giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc.
Trường hợp có yêu cầu mà đương sự không giao nộp hoặc nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ thì khi đó, Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ theo quy trình căn cứ dựa vào những tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp.
Khi thực hiện việc giao nộp chứng cứ cho Tòa án sẽ phải lập thành biên bản. Nội dung biển bản gồm có:
– Ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của tài liệu, chứng cứ.
– Số bản, số trang của chứng cứ.
– Thời gian nhận chứng cứ.
– Chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp chứng cứ.
– Chữ ký của người tiếp nhận chứng cứ kèm đóng dấu của Tòa án.
Lưu ý: biên bản giao nộp chứng cứ phải được lập thành hai bản, một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ; một bản lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự.
– Trường hợp chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài thì trước đó phải dịch sang tiếng Việt và được công chứng, chứng thực.
– Thời hạn thực hiện việc giao nộp chứng cứ, tài liệu sẽ do Thẩm phán phân công giải quyết vụ việc quyết định, tuy nhiên sẽ căn cứ vào thời hạn chuẩn bị xét xử và không được vượt quá khoảng thời gian chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm. Cụ thể:
+ Đối với các vụ tranh chấp về dân sự theo quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và các vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
+ Đối với các vụ án tranh chấp về kinh doanh, thương mại được quy định tại Điều 30 và các vụ án tranh chấp về lao động được quy định tại Điều 32 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
2. Quy định về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự:
Nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 được hiểu là trong tố tụng dân sự được hiểu là đương sự phải có nghĩa vụ cung cấp được các chứng cứ, đưa ra những căn cứ pháp lý để chứng minh cho các yêu cầu của chính mình đưa ra là có căn cứ cơ sở pháp lý với Tòa án, mục đích là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình.
Tuy nhiên, ngoại trừ những trường hợp sau đây đương sự sẽ không có nghĩa vụ phải chứng minh, bao gồm:
– Trường hợp kiện cáo tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ: người khởi kiện không có nghĩa vụ phải chứng minh; việc chứng minh này là trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chứng minh rằng lỗi không phải của mình gây ra những hậu quả, thiệt hại cho khách hàng.
– Đối với các vụ kiện tranh chấp lao động, những tài liệu, chứng cứ bị người sử dụng lao động đang quản lý, người lao động không thể cung cấp được thì khi ra Tòa, người sử dụng lao động phải có trách nhiệm cung cấp và giao nộp chứng cứ cho Tòa án.
– Trường hợp khởi kiện người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt
– Trong quá trình giải quyết các vụ việc, vụ án dân sự, có những tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh, bao gồm:
+ Những tình tiết, sự kiện được thể hiện rõ ràng tất cả mọi người cũng như Tòa án đều biết và được hiển nhiên thừa nhận.
+ Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp.
Nếu như thấy cần thiết để chứng minh tính hợp pháp của văn bản được công chứng, chứng thực do có dấu hiệu nghi ngờ tính khách quan của tài liệu, chứng cứ đó thì Thẩm phán có quyền yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức công chứng, chứng thực xuất trình bản gốc, bản chính.
+ Những tình tiết, sự kiện được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; hoặc trong các quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
+ Trường hợp một bên đương sự đưa ra những những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia thừa nhận, không phản đối thì đương sự đó sẽ không cần có trách nhiệm chứng minh.
+ Trường hợp người đại diện của đương sự tham gia tố tụng thì nghiễm nhiên, sự thừa nhận của người đại diện theo pháp luật sẽ được coi là sự thừa nhận của đương sự, điều kiện là không được vượt quá phạm vi đại diện.
Văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết: Bộ luật tố tụng dân sự 2015.