Quy định về các hình thức xử lý vật chứng và thủ tục xử lý vật chứng. Thẩm quyền xử lý vật chứng theo quy định của BLTTHS Việt Nam hiện hành.
Mục lục bài viết
- 1 1. Các hình thức xử lý vật chứng:
- 1.1 1.1. Trả lại vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp:
- 1.2 1.2. Tịch thu vật chứng nộp vào ngân sách Nhà nước:
- 1.3 1.3. Tịch thu tiêu hủy vật chứng:
- 1.4 1.4. Giao vật chứng cho cơ quan quản lý chuyên ngành xử lý:
- 1.5 1.5. Bán vật chứng theo quy định của pháp luật:
- 1.6 1.6. Tạm giao vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp:
- 2 2. Thẩm quyền xử lý vật chứng trong tiến hành tố tụng:
- 3 3. Thủ tục xử lý vật chứng:
1. Các hình thức xử lý vật chứng:
Về nguyên tắc, vật hoặc tài sản bị thu giữ với tư cách là vật chứng – nghĩa là những vật thể, tài sản có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội – thì mới thuộc phạm vi xử lý vật chứng. Nói cách khác, các hình thức xử lý vật chứng chỉ áp dụng đối với vật chứng, còn những vật, tài sản không phải là vật chứng đã được thu giữ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì không được áp dụng các quy định về xử lý vật chứng của luật TTHS mà theo quy định của các ngành luật khác như luật dân sự hoặc
Việc xác định vật nào là vật chứng, vật nào không phải vật chứng để áp dụng đúng các quy định của pháp luật lại là vấn đề gây tranh cãi, các cấp xét xử cũng có quan điểm không giống nhau trong cùng một vụ án. Hình thức xử lý vật chứng là các cách thức mà cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật có thể sử dụng để giải quyết các vật chứng đã thu thập trong quá trình giải quyết vụ án. Các hình thức xử lý vật chứng, có thể là những hình thức xử lý triệt để, cũng có thể chỉ là hình thức xử lý tạm thời.
Điều quan trọng nhất khi khái quát về các hình thức xử lý vật chứng là phải xây dựng các điều kiện, phân loại làm sao để một vật chứng trong vụ án chỉ có một hình thức xử lý duy nhất, tránh tình trạng một vật chứng nhưng có thể áp dụng nhiều hình thức xử lý khác nhau. Với cách tiếp cận như vậy, các hình thức xử lý vật chứng tạm thời gồm có: bán theo quy định của pháp luật, tạm giao cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp tiếp tục khai thác, sử dụng. Các hình thức xử lý vật chứng triệt để bao gồm: trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, tịch thu nộp ngân sách nhà nước, tịch thu tiêu hủy, giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý. Cụ thể như sau:
1.1. Trả lại vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp:
Xuất phát từ thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự gặp nhiều trường hợp, các vật chứng thu được của vụ án có thể là tài sản hợp pháp của một cá nhân, tổ chức nào đó trở thành vật chứng của một vụ án hình sự trong khi chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp không hề mong muốn hoặc có lỗi trong việc những tài sản này trở thành vật chứng của vụ án. Một trong các nguyên tắc cơ bản của mọi nhà nước là đảm bảo, bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Do đó, trả lại vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp là một hình thức xử lý vật chứng phổ biến. Nhà nước ghi nhận, bảo đảm trong Hiến pháp về việc bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của mọi công dân. Bộ luật Dân sự cũng quy định: “Không ai có thể bị tước đoạt trái luật quyền sở hữu đối với tài sản”.
Như vậy, quyền sở hữu hợp pháp tài sản là quyền cơ bản của mọi người được pháp luật bảo vệ, không ai được xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác. Vật chứng trong vụ án hình sự hoàn toàn có thể là một tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp hoặc quyền quản lý hợp pháp của một chủ thể. Do vậy, nếu không có căn cứ do pháp luật quy định để chấm dứt quyền sở hữu của họ đối với tài sản của họ thì phải trả lại tài sản đó.
Điều kiện để vật chứng được trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp bao gồm:
Thứ nhất, những tài sản do họ sở hữu hoặc quản lý hợp pháp đã trở thành vật chứng của vụ án do nguyên nhân trái ý muốn của họ. Họ không cố ý hoặc không mong muốn các tài sản này trở thành vật chứng của vụ án.
Thứ hai, phải xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đối với vật chứng đó. Vật chứng có thể thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Cá nhân sở hữu vật chứng có thể chính là bản thân bị can, bị cáo trong vụ án có thể là người khác. Việc xác định chủ sở hữu của một tài sản có trường hợp tốn rất nhiều thời gian và không phải lúc nào cũng có kết quả. Không ít trường hợp hết thời hạn tố tụng cũng chưa xác định được chủ sở hữu đối với vật chứng của vụ án. Bên cạnh đó, chưa có quy định về trình tự, thủ tục
Các trường hợp trả lại vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp phổ biến gồm:
– Vật chứng là tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt. Các vật chứng này có thể là tiền, đồ vật, phương tiện giao thông, thường gặp trong các vụ án Cướp tài sản, Trộm cắp tài sản, Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy, Tham ô tài sản, … Chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp những tài sản này có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc Nhà nước.
– Vật chứng là tài sản bị người phạm tội sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội nhưng chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp những tài sản này không có lỗi cố ý trong việc để những tài sản này trở thành công cụ, phương tiện phạm tội. Trong thực tế có những tài sản của người khác bị người phạm tội chiếm đoạt, sử dụng trái phép làm công cụ, phương tiện phạm tội, trở thành vật chứng của vụ án. Chẳng hạn, người phạm tội mượn xe máy của người khác để làm phương tiện đi lại nhưng sau đó lại sử dụng để đi cướp giật tài sản. Khi đó, chiếc xe máy này trở thành vật chứng trong vụ án Cướp giật tài sản, người phạm tội còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng định khung là “dùng thủ đoạn nguy hiểm”. Tuy nhiên, trong trường hợp này chủ sở hữu chiếc xe máy không có lỗi trong việc chiếc xe trên trở thành công cụ phạm tội, nên phải trả lại chiếc xe máy trên cho chủ sở hữu.
– Vật chứng là tài sản mang dấu vết của tội phạm nhưng chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp những tài sản này không có lỗi cố ý trong việc để những tài sản này trở thành vật mang dấu vết của tội phạm. Chẳng hạn, người phạm tội trong vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, lái xe ô tô va chạm với người khác gây thiệt hại đủ yếu tố để khởi tố vụ án hình sự, chiếc xe ô tô sẽ trở thành vật chứng trong vụ án, trên xe ô tô sẽ để lại dấu vết va chạm, tuy nhiên người phạm tội không có lỗi cố ý trong việc gây ra vụ tai nạn, do đó chiếc xe phải được trả lại cho chủ sở hữu.
1.2. Tịch thu vật chứng nộp vào ngân sách Nhà nước:
Đây là một hình thức tước quyền sở hữu của người đang sở hữu hoặc đang quản lý vật chứng. Hoạt động xử lý vật chứng là một hoạt động TTHS, do vậy nó cũng hướng đến mục đích chung của hoạt động TTHS đó là phòng chống tội phạm. Khi chứng minh được rằng tài sản do họ đang sở hữu, đang quản lý là tài sản có được không có căn pháp luật, cụ thể là do hành vi phạm tội mà có hoặc là tài sản hợp pháp của họ nhưng họ có lỗi trong việc quản lý để tài sản trở thành công cụ, phương tiện phạm tội thì phải tước quyền sở hữu của họ. Hình thức xử lý này vừa xóa bỏ điều kiện phạm tội, động cơ phạm tội, đồng thời đảm bảo các lợi ích cho ngân sách Nhà nước. Do đó, những vật chứng có giá trị là tài sản không thuộc trường hợp được trả lại và thuộc một trong những trường hợp dưới đây sẽ được tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Những trường hợp vật chứng bị tịch thu sung quỹ Nhà nước gồm có:
– Vật chứng là tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt nhưng không xác định được chủ sở hữu. Việc xác định chủ sở hữu của tài sản không phải lúc nào cũng có kết quả, trong những trường hợp đã áp dụng đầy đủ các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định những vẫn không xác định được ai là chủ sở hữu của tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt thì vật chứng đó sẽ được tích thu nộp ngân sách Nhà nước. Trường hợp này tuy giống về kết quả nhưng khác cơ bản về bản chất với trường hợp tài sản của Nhà nước bị chiếm đoạt sau đó được trả lại cho Nhà nước là chủ sở hữu đối với tài sản bị chiếm đoạt.
– Vật chứng là tài sản có được do hành vi phạm tội, gồm: những tài sản do bán, trao đổi tài sản đã chiếm đoạt được ở các tội có tính chất chiếm đoạt;
các khoản thu lợi bất chính từ các tội phạm như Đánh bạc, Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, Buôn lậu, Rửa tiền, Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, …
– Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội và chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp những tài sản này có lỗi trong việc để những tài sản này trở thành công cụ, phương tiện phạm tội.
1.3. Tịch thu tiêu hủy vật chứng:
Vật chứng bị tịch thu tiêu hủy nếu chúng không có giá trị sử dụng hoặc tuy có giá trị sử dụng nhưng giá trị quy đổi thành tiền không đáng kể so với chi phí bảo quản, lưu giữ, thanh lý hóa giá theo quy định của pháp luật.
– Vật chứng cũng bị tiêu hủy nếu là vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản cần phải bán theo quy định của pháp luật nhưng không bán được.
1.4. Giao vật chứng cho cơ quan quản lý chuyên ngành xử lý:
Hình thức xử lý này được áp dụng đối với một số vật chứng đặc biệt như động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm, thực vật ngoại lai, vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, vật liệu nổ, … Đối với những vật chứng này, việc áp dụng các hình thức xử lý vật chứng nêu trên đều không phù hợp. Đối với động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm là những loại động vật cần có quản lý, bảo vệ của các cơ quan quản lý chuyên môn, chuyên ngành như các trung tâm bảo tồn, các cơ quan kiểm lâm mới đáp ứng được yêu cầu. Thực vật ngoại lai là các nguồn gen được du nhập từ nước ngoài vào nước ta, các nguồn gen này có thể có lợi hoặc có hại tuy nhiên đều cần có sự quản lý nghiệm của những cơ quan có chuyên môn. Đối với vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, vật liệu nổ, … các loại vật chứng này không được bảo quản ở kho vật chứng thông thường mà phải được giao cho các cơ quan, đơn vị được phép trang bị vũ khí, vật liệu nổ, phương tiện kỹ thuật quân sự để hiện nhiệm vụ, để các đơn vị này xử lý bằng biện pháp phù hợp.
1.5. Bán vật chứng theo quy định của pháp luật:
Đối với những vật chứng không thuộc trường hợp có thể trả lại ngay cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp và thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản. Có thể là các loại lương thực, thực phẩm, hàng hóa gần hết hạn sử dụng hoặc vật chứng cần phải được bảo quản theo một quy trình riêng biệt nếu bảo quản tại kho vật chứng thông thường sẽ gặp khó khăn, không đảm bảo. Trong trường hợp này, chủ thể có thẩm quyền xử lý vật chứng sẽ phối hợp với cơ quan liên quan để bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Số tiền thu được sau khi bán được nộp tại kho bạc hoặc cơ quan tài chính để tạm giữ. Thực chất việc xử lý vật chứng theo hình thức bán không phải là cách xử lý triệt để, chỉ là biện pháp tạm thời nhằm tránh xảy ra thiệt hại đối với vật chứng hoặc ảnh hưởng tới môi trường. Sau đó, các chủ thể có thẩm quyền xử lý vật chứng sẽ phải căn cứ vào đặc điểm cụ thể của vật chứng đã được bán thuộc loại nào để quyết định xử lý đối với số tiền thu được từ việc bán, có thể là tịch thu nộp ngân sách nhà nước hoặc trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp.
1.6. Tạm giao vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp:
Đối với các vật chứng là kho tàng, nhà xưởng, khách sạn, nhà, đất cũng như các phương tiện sản xuất kinh doanh thì có thể giao tài sản đó chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tiếp tục khai thác, sử dụng, nếu xét thấy những tài sản đó có khả năng sinh lời; nếu họ không có điều kiện khai thác, sử dụng nhưng họ tìm được đối tác để khai thác, sử dụng thì có thể giao cho đối tác đó khai thác sử dụng tài sản sau khi đã có thỏa thuận bằng văn bản giữa chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp với đối tác nhận khai thác, sử dụng tài sản; nếu họ không tìm được đối tác hoặc trong trường hợp không xác định được chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp thì cơ quan đang thụ lý giải quyết vụ án có thể giao tài sản đó cho tổ chức, cá nhân có điều kiện khai thác, sử dụng trên cơ sở thỏa thuận bằng văn bản giữa cơ quan đang thụ lý vụ án và cá nhân, tổ chức nhận khai thác, sử dụng tài sản.
Tuy nhiên, các hình thức xử lý vật chứng tạm thời nêu trên chỉ là bước trung gian, sau đó các cơ quan, người có thẩm quyền sẽ phải có một lần nữa quyết định việc xử lý đối với các vật chứng này bằng một trong các hình thức là trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, tịch thu nộp ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy mới đảm bảo tính triệt để của việc xử lý vật chứng trong vụ án hình sự.
2. Thẩm quyền xử lý vật chứng trong tiến hành tố tụng:
Hoạt động xử lý vật chứng có thể xảy ra ở tất cả các giai đoạn tố tụng của vụ án hình sự, vụ án đang ở giai đoạn tố tụng nào sẽ do cơ quan đang thụ lý, giải quyết vụ án quyết định việc xử lý vật chứng. Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng là các “pháp nhân công quyền trong lĩnh vực tư pháp đại diện cho Nhà nước tiến hành các chức năng buộc tội và chức năng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án hình sự”. Việc thực thi các quyền hạn, trách nhiệm để thực hiện các chức năng của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong các cơ quan đó trực tiếp tiến hành.
Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm: người tiến hành tố tụng và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Người tiến hành tố tụng gồm người tiến hành tố tụng trong cơ quan điều tra, người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát và người tiến hành tố tụng trong
Do tính chất đặc biệt quan trọng của vật chứng đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự, thông thường pháp luật TTHS đều quy định, không phải tất cả những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đều có thẩm quyền quyết định xử lý vật chứng mà thường phải do những người đứng đầu các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định. Cụ thể, những người đó là Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án hoặc Hội đồng xét xử mới có quyền quyết định xử lý vật chứng.
Đối với các nước theo mô hình TTHS tranh tụng, việc giải quyết vụ án hình sự chỉ bắt đầu khi Tòa án thụ lý đối với vụ án, các hoạt động trước khi có quyết định thụ lý của vụ án chưa được coi là hoạt động tố tụng thì thẩm quyền xử lý vật chứng đương nhiên chỉ thuộc về Thẩm phán giải quyết vụ án.
3. Thủ tục xử lý vật chứng:
Sau khi có quyết định xử lý vật chứng của người có thẩm quyền quyết định việc xử lý vật chứng đã phân tích nêu trên, nếu vật chứng chưa được chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp thì việc thi hành quyết định do những người tiến hành tố tụng được phân công (Điều tra viên, Kiểm sát viên) nếu vật chứng xử lý ở giai đoạn điều tra, truy tố. Trường hợp vật chứng đã được chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp thì việc xử lý vật chứng sẽ do cơ quan thi hành án thực hiện. Xử lý vật chứng là một hoạt động tố tụng do đó nó phải tuân thủ quy định chung khi tiến hành hoạt động tố tụng đó là phải lập biên bản theo mẫu thống nhất và lưu vào hồ sơ vụ án. Đối với mỗi hình thức xử lý vật chứng lại đòi hỏi phải có những yêu cầu riêng về mặt thủ tục để đảm bảo việc xử lý vật chứng là khách quan.
– Khi tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước, thì cơ quan xử lý phải thông báo bằng văn bản và tiến hành giao vật chứng đó cho cơ quan tài chính cùng cấp biết để tiếp nhận. Khi chuyển giao vật chứng phải kèm theo các quyết định liên quan đến việc xử lý vật chứng. Việc chuyển giao phải có sự có mặt của đại diện cơ quan giao và cơ quan nhận vật chứng và phải được lập biên bản, mô tả cụ thể thực trạng vật chứng, có chữ ký của người đại diện và dấu của cơ quan bên giao, chữ ký của người đại diện và dấu của cơ quan bên nhận. Trường hợp quyết định tịch thu đã được thi hành nhưng sau đó phát hiện có sai lầm và đã được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ quyết định tịch thu thì có quan xử lý và cơ quan tài chính đã nhận vật chứng phối hợp để làm thủ tục hoàn trả lại số tiền đã nộp vào Ngân sách nhà nước theo quy định.
– Việc tịch thu tiêu hủy vật chứng phải được Thủ trưởng cơ quan thi hành lập Hội đồng tiêu hủy, trừ những trường hợp phải tiêu hủy ngay. Hội đồng tiêu hủy phải có đại diện cơ quan tiêu hủy, đại diện cơ quan tài chính cùng cấp và đại diện cơ quan chuyên môn (trong một số trường hợp cần thiết).
– Khi trả lại vật chứng cho chủ sở hữu người quản lý hợp pháp thì cơ quan thi hành phải thông báo cho người được trả lại thời gian, địa điểm nhận lại vật chứng. Khi người được trả lại tài sản đến nhận lại thì phải lập biên bản nêu rõ quá trình trả lại và tình trạng, số lượng những vật chứng được trả lại. Nếu quá thời hạn mà người được trả lại tài sản không đến thì cơ quan xử lý vật chứng gửi vật chứng (nếu là tiền) theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn và thông báo cho người được trả lại; nếu vật chứng là tài sản khác không phải là tiền thì bán tài sản và gửi số tiền thu được theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn và thông báo cho người được trả lại. Hết thời hạn nhất định người được trả lại vật chứng vẫn không đến nhận số tiền đã gửi tiết kiệm mà không có lý do chính đáng thì cơ quan xử lý làm thủ tục để nộp Ngân sách nhà nước.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả nhận thấy khái niệm “xử lý vật chứng” tuy là một khái niệm pháp lý quen thuộc nhưng lại không được quan tâm nghiên cứu để nêu ra những đặc điểm là bản chất. Theo Từ điển luật học, “xử lý vật chứng là xem xét, giải quyết vật chứng đã thu thập được”. Từ định nghĩa nêu trên có thể nhận thấy nội hàm của khái niệm chưa được làm rõ, không chỉ ra được những thuộc tính bản chất của việc xử lý vật chứng. Khoa học pháp lý đã có một số quan điểm khác nhau về xử lý vật chứng. Có quan điểm cho rằng: “Xử lý vật chứng là việc cơ quan, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền, tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng, căn cứ vào các quy định của pháp luật quyết định số phận pháp lý của vật chứng đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử”.
Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra định nghĩa về xử lý vật chứng như sau: Xử lý vật chứng là hoạt động tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhằm trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, tịch thu nộp ngân sách nhà nước, tịch thu tiêu hủy để khôi phục lại quyền sở hữu cho chủ sở hữu, thay đổi chủ sở hữu hoặc tước quyền sở hữu đối với những vật chứng của vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.