Quy định về chế độ hôn nhân một vợ, một chồng? Quy định về bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ, một chồng?
Hôn nhân là một phần không thể thiếu trong cuộc sống đời thường của mỗi chúng ta. Hôn nhân được xem là sự gắn kết giữ tình nghĩa và tài sản của hai cá nhân trong đó có một nam và một nữ và được chứng nhận bởi một thủ tục pháp lý tại cơ quan có thẩm quyền đó là việc đăng ký kết hôn khi các bên thuận tình và đã đủ điều kiện kết hôn. Trong quá trình chung sống với nhau như vợ chồng thì vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân này cần phải tuân thủ các nguyên tắc một vợ, một chồng. Đây cũng xem là tiêu chí để các một cuộc hôn nhân được bình đẳng và vợ chồng chung sống tôn trọng lẫn nhau.
Vậy pháp luật hiện hành đã có những quy định gì để bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ, một chồng? Nội dung của việc xử lý các hành vi của vợ, chồng trong hôn nhân vi phạm việc bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ, một chồng. Trong nội dung bài viết dưới đây, Luật Dương Gia sẽ giải đáp thắc mắc này của quý vị để hiểu rõ hơn về pháp luật Việt Nam hiện hành đã quy định về việc xử lý, bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ, một chồng.
Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.6568
Cơ sở pháp lý:
–
– Bộ luật hình sự năm 2015.
1. Quy định về chế độ hôn nhân một vợ, một chồng
Trên cơ sở quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình thì một nguyên tắc không thể không được nhắc đến đó là nguyên tắc một vợ một chồng và đây được xác định là một trong những nguyên tắc cơ bản hàng đầu của chế độ hôn nhân và gia đình được pháp luật Hôn nhân gia đình của Việt Nam ghi nhận. Do đó, có thể hiểu rằng nguyên tắc này được quy định với nội dung là cá nhân đã kết hôn chỉ được có một vợ hoặc một chồng và trong thời kì hôn nhân không được kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác. Cụ thể, nguyên tắc này được quy định và ghi nhận tại Điều 2 Luật này là:
“Điều 2. Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình
1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”.
Dựa theo quy định này thì mỗi cặp vợ chồng thực hiện việc chung sống với nhau đã có nhiều biện pháp để bảo vệ hôn nhân, gia đình, khi vợ chồng không chung thuỷ với nhau, có quan hệ ngoại tình, thì người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, cần tích cực nhắc nhở, khuyên bảo, động viên, tha thứ lỗi lầm… để họ chấm dứt quan hệ ngoại tình. Đồng thòi khi các bên na nữ có quan hệ hôn nhân được xác lập khi đáp ứng các điều kiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, các điều kiện đó cũng phải phù hợp với nguyên tắc tự nguyện, một vợ một chồng. Trong thực tế hiện nay không còn giống như thời phong kiến trước kia nữa, do đó mà cá nhân dù là nam hay nữ thì ở một thời điểm chỉ được tồn tại quan hệ hôn nhân với một người. Điều đó đồng nghĩa với việc, trong thời kì hôn nhân, một bên không được kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác.
Quy định về việc đặt ra vấn đề chế độ một vợ một chồng trong pháp luật Hông nhân và gia đình nhằm đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ giữa vợ chồng trong cuộc hôn nhân, giúp cuộc sống hôn nhân bền vững, hạnh phúc. Mặt khác, căn cứ theo điểm c khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014; thì luật nghiêm cấm việc một người đang có vợ, có chồng mà kết hôn; hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng; mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ. Chính vì thế, khi cá nhân có hành vi này đã vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng và sẽ bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi của mình.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các văn bản hướng dẫn áp dụng, các thuật ngữ “kết hôn” được hiểu như sau: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”
Theo như quy định của pháp luật hiện hành thì các hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng và bị pháp luật cấm dưới góc độ này là:
Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người chưa có vợ, có chồng. Trong đó, đối với nội dung người ang có vợ hoặc có chồng được hiểu là người đã kết hôn (có đăng ký kết hôn hoặc hôn nhân thực tế được pháp luật công nhận) và chưa chấm dứt quan hệ hôn nhân bằng một quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án (về công nhận thuận tình ly hôn, xử cho ly hôn hay tiêu hôn vì vi phạm điều kiện kết hôn do luật định) hoặc một bên chết, mất tích đã bị Toà án tuyên bố mất tích…
Hoặc là các hành vi của người chưa có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mình biết rõ là đang có vợ, có chồng. Bởi lẽ đây là hành vi bị cấm là vì việc kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Chính vì vậy, người chưa có vợ, có chồng là người chưa từng kết hôn hoặc đã kết hôn nhưng đã chấm dứt hôn nhân. Chỉ khi người chưa có vợ, có chồng biết được người mình chung sống là người đang có vợ, có chồng thì mới được xem là hành vi khách quan của tội phạm này.
Như vậy, có thể thấy rằng, sự ra đời của pháp luật Hôn nhân và gia đình đã có các quy định rất phù hợp với thực tế về vấn đề tôn trọng quyền bình đẳng của vợ và chồng trong quan hẹ hôn nhân của mình. Chính vì thế mà một người sau khi đã thực hiện việc kết hôn với người khác thì chỉ được có một vợ hoặc một chồng. nếu trong trường hợp mà nam nữ sau khi kết hôn vẫn có hành vi vi phạm về nguyên tắc, chế độ một vợ, một chồng theo như luật này thì sẽ phải chịu các hình thứ xử lý theo quy định của pháp luật hành chính, hình sự Việt Nam hiện hành và các văn bản pháp luật khác có quy định về nội dung này.
2. Quy định về bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ, một chồng
Trên cơ sở quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 được xác định là các hành vi bị cấm hay còn được biết đến là các hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Do đó, các hành vi này sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Các chế tài có thể áp dụng để xử lý hành vi vi phạm bao gồm xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, tùy vào mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm và hậu quả của hành vi đó để lại.
Trường hợp đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình, vi phạm chế độ một vợ, một chồng thì tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Dựa theo quy định tại Điểm a, b, c khoản 1 Điều 48
– Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ.
– Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác.
– Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ.
Trường hợp xử lý hình sự căn cứ theo quy định tại Điều 182 Bộ luật Hình sự quy định về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng như sau:
Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm.
Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Việc xử lý tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng quy định tại Điều 147 Bộ luật Hình sự được hướng dẫn tại Mục 3,
Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó…
Chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng có thể là làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát… hoặc người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.