Quy định trách nhiệm bảo mật thông tin của người nộp thuế? Quản lý tài khoản của người nộp thuế?
Hiện nay đố với lĩnh vực thuế pháp luật đã ban hành quy định đối với việc bảo mật thông tin của người nộp thuế. theo đó cơ quan có thẩm quyền thực hiện cần có trách nhiệm bảo mật thông tin của người nộp thuế theo quy định của pháp luật. Vậy để hiểu rõ hơn về các Quy định trách nhiệm bảo mật thông tin của người nộp thuế hiện nay do pháp luật đề ra.
Cơ sở pháp lý:
Nghị định số: 126/2020/NĐ-CP quy đinh chi tiết một số điều của Luật quản lý thuế
Luật sư
Mục lục bài viết
1. Quy định trách nhiệm bảo mật thông tin của người nộp thuế:
Căn cứ theo quy định tại Nghị định số 126 cụ thể tại khoản 2, điều 30 có quy định cụ thể như sau:
” 2. Ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp các thông tin về tài khoản thanh toán của người nộp thuế mở tại ngân hàng cho cơ quan quản lý thuế như sau:
a) Theo đề nghị của cơ quan quản lý thuế, ngân hàng thương mại cung cấp thông tin tài khoản thanh toán của từng người nộp thuế bao gồm: tên chủ tài khoản, số hiệu tài khoản theo Mã số thuế đã được cơ quan quản lý thuế cấp, ngày mở tài khoản, ngày đóng tài khoản.
b) Việc cung cấp thông tin về tài khoản theo điểm a khoản này được thực hiện lần đầu trong thời gian 90 ngày kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành. Việc cập nhật các thông tin về tài khoản được thực hiện hàng tháng trong 10 ngày của tháng kế tiếp. Phương thức cung cấp thông tin được thực hiện dưới hình thức điện tử.
c) Ngân hàng thương mại cung cấp thông tin giao dịch qua tài khoản, số dư tài khoản, số liệu giao dịch theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế để phục vụ cho mục đích thanh tra, kiểm tra xác định nghĩa vụ thuế phải nộp và thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
d) Cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm bảo mật thông tin và hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự an toàn của thông tin theo quy định của Luật Quản lý thuế và quy định của pháp luật có liên quan.”
Như vậy căn cứ theo quy định này ta thấy rằng theo quy định này, ngân hàng thương mại sẽ chỉ cung cấp thông tin liên quan đến tài khoản thanh toán và chỉ cung cấp những thông tin định danh cơ bản cho cơ quan thuế, không bao gồm các thông tin liên quan đến giao dịch của các tài khoản này. Bên cạnh đó trên thực tế hiện nay cơ quan thuế cũng đã phối hơp cung cấp cho các ngân hàng mã số thuế của người nộp thuế nên việc các ngân hàng cung cấp thông tin về tài khoản thanh toán của người nộp thuế cho cơ quan thuế là vấn đề hợp tác về cơ sở dữ liệu bình thường và hoàn toàn làm được.
Riêng quy định ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp thông tin giao dịch qua tài khoản, số dư tài khoản, số liệu giao dịch theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế để phục vụ cho mục đích thanh tra, kiểm tra xác định nghĩa vụ thuế phải nộp và thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
Như vậy nên việc cung cấp thông tin không gây ảnh hưởng cho khách hàng hay lo ngại làm khó cho ngân hàng vì Tổng cục Thuế có thông tư hướng dẫn theo cơ sở dữ liệu cho ngân hàng và hoàn toàn bảo mật thông tin người nộp thuế và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Và việc yêu cầu cung cấp tài khoản ngân hàng chủ yếu nhằm quản lý các giao dịch qua mạng từ Facebook, Google, Youtube không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nhưng có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số với tổ chức, cá nhân trong nước…
Cơ quan thuế sẽ hợp tác với ngân hàng thương mại để quản lý cơ sở dữ liệu, bảo mật thông tin khách hàng. Trên thực tế, vị này cho hay việc cung cấp các thông tin tài khoản không phải là vấn đề mới. Năm 2016, các ngân hàng thương mại đã có khả năng theo dõi và cung cấp thông tin tài khoản của cá nhân, doanh nghiệp sinh sống tại Hoa Kỳ. Do đó, việc yêu cầu cung cấp thông tin trong nước không có gì quá khó khăn. Ngành Thuế sẽ chỉ yêu cầu cung cấp trong một số trường hợp cụ thể.
2. Quản lý tài khoản của người nộp thuế:
Từ ngày 5/12 Nghị định 126 (NĐ126) của Chính phủ có hiệu lực. Theo đó từ đề nghị của cơ quan quản lý thuế, ngân hàng thương mại (NHTM) sẽ phải cung cấp thông tin tài khoản thanh toán của từng người nộp thuế bao gồm: Tên chủ tài khoản, số hiệu tài khoản theo mã số thuế đã được cấp, ngày mở tài khoản, ngày đóng tài khoản.
Riêng thông tin giao dịch, số dư tài khoản, số liệu giao dịch của người nộp thuế (NNT) sẽ chỉ được ngân hàng cung cấp khi có đề nghị của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế, để phục vụ cho mục đích thanh, kiểm tra xác định nghĩa vụ thuế, cưỡng chế thu thuế theo quy định.
Tuy nhiên có vấn đề đặt ra là việc bảo mật thông tin của NNT tại Việt Nam đang có nhiều vấn đề khi việc bán thông tin diễn ra tràn lan. Liệu rồi sẽ có hay không chuyện đá bóng trách nhiệm lẫn nhau khi thông tin bị lộ ra? Chưa kể nhiều quan điểm còn nói rằng, khi quản chặt các giao dịch thanh toán qua ngân hàng thì các cá nhân lại tiến tới thanh toán bằng tiền mặt. Chẳng hạn như dịch vụ mua nhà đất, toàn giao dịch tiền mặt, để tránh bị đóng thuế cao. Do vậy, nếu như cơ quan thuế không tính đến các phương án lách, bảo mật thông tin thì thuế thương mại điện tử vẫn bị thất thu.
Có một vấn đề mà rất nhiều người quan tâm đó là quy định từ 5/12, theo đề nghị của cơ quan quản lý thuế, ngân hàng thương mại cung cấp thông tin tài khoản thanh toán của từng người nộp thuế, bao gồm: Tên chủ tài khoản, số hiệu tài khoản theo mã số thuế đã được cơ quan quản lý thuế cấp, ngày mở tài khoản, ngày đóng tài khoản.
Đồng thời, trong trường hợp cần thanh tra, kiểm tra xác định nghĩa vụ thuế phải nộp và thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, ngân hàng thương mại cung cấp thông tin giao dịch qua tài khoản, số dư tài khoản, số liệu giao dịch theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế. Cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm bảo mật thông tin và hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự an toàn của các thông tin trên.
Quy định mới này khiến nhiều người nghi ngại về tính bảo mật thông tin cá nhân. Hiện nay cơ quan thuế cũng đã phối hợp cung cấp cho các ngân hàng mã số thuế của người nộp thuế nên việc các ngân hàng cung cấp thông tin về tài khoản thanh toán của người nộp thuế cho cơ quan thuế là vấn đề hợp tác về cơ sở dữ liệu bình thường và hoàn toàn làm được.
Do vậy, việc chia sẻ thông tin chỉ được thực hiện khi có yêu cầu từ
Ngoài ra, nhiều ngân hàng ở nhiều nước còn sử dụng cơ chế tài khoản mật danh, tức là cung cấp cách thức đặc biệt để các chủ tài khoản cung cấp tên tài khoản là một mã số hoặc một danh xưng kiểu “nickname”. Thông tin cá nhân chi tiết của những tài khoản như thế chỉ được biết bởi các quản lý cấp cao của ngân hàng, những nhân viên giao dịch không thể biết, hồ sơ cũng được bảo vệ rất cẩn mật. Đặc điểm này khá phổ biến tại nhiều ngân hàng châu Âu, bao gồm có các ngân hàng Thụy Sỹ.
Tuy nhiên, tại Việt Nam thì cơ quan không phải là
Do vậy, cần ban hành quy định hạn chế việc cung cấp thông tin tài khoản ngân hàng theo hướng chỉ tòa án mới có quyền yêu cầu các ngân hàng cung cấp thông tin.