Trong thực tiễn, người làm chứng thường đối mặt với nguy cơ bị đe dọa, trả thù khi tham gia tố tụng – ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền an toàn cá nhân và tính khách quan của vụ án. Vậy, pháp luật hiện hành quy định trách nhiệm bảo vệ người làm chứng như thế nào và cơ quan nào phải chịu trách nhiệm nếu vi phạm?
Mục lục bài viết
- 1 1. Tại sao cần quy định trách nhiệm bảo vệ người làm chứng?
- 2 2. Ai có trách nhiệm bảo vệ người làm chứng?
- 3 3. Quy định pháp luật về trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc bảo vệ người làm chứng:
- 4 4. Quy định của pháp luật về trách nhiệm của Viện kiểm sát và Tòa án trong bảo vệ người làm chứng:
- 5 5. Cơ quan tiến hành tố tụng vi phạm trách nhiệm bảo vệ người làm chứng thì bị xử lý như nào?
1. Tại sao cần quy định trách nhiệm bảo vệ người làm chứng?
Người làm chứng đóng vai trò then chốt trong quá trình tố tụng, bởi họ là nguồn thông tin cung cấp giúp làm sáng tỏ vụ việc và phục vụ cho hoạt động điều tra, xét xử. Họ là cá nhân có trách nhiệm trung thực trình bày các tình tiết mà họ biết.
Khoản 1 Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định người làm chứng là: người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.
Việc bảo vệ người làm chứng là điều kiện cần để đảm bảo tính khách quan, trung thực và hiệu quả của quá trình tố tụng. Họ có thể bị đe dọa hoặc trả thù vì lời khai ảnh hưởng đến lợi ích của các bên liên quan trong vụ án.
Một khi không được bảo vệ, người làm chứng có thể sợ hãi, từ chối khai báo hoặc đưa ra lời khai không trung thực – khiến vụ án không thể được phân xử đúng đắn. Ngược lại, nếu họ được bảo vệ an toàn, họ sẽ sẵn lòng hợp tác và cung cấp thông tin chính xác, góp phần bảo vệ công lý.
Do vậy, người làm chứng có quyền được bảo vệ; pháp luật đã ghi nhận quyền này nhằm bảo vệ an toàn cho người làm chứng. Cụ thể, Khoản 3 Điều 66 Bộ luật tố tụng Hình sự quy định quyền của người làm chứng được yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình cũng như người thân.
Chính vì vậy, để các cơ quan có liên quan nhận thức rõ trách nhiệm của mình và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người làm chứng, pháp luật cần quy định về trách nhiệm bảo vệ người làm chứng. Từ đó giúp đảm bảo tính khách quan, trung thực và liêm chính của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, tạo cơ sở vững chắc để giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đồng thời, thể hiện nguyên tắc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự, phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong bối cảnh mới.
2. Ai có trách nhiệm bảo vệ người làm chứng?
Trong quá trình tham gia tố tụng hình sự, nếu người làm chứng hoặc người thân của họ bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp khác. Họ có thể đề nghị, yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền sau đây áp dụng biện pháp bảo vệ phù hợp:
- Cơ quan điều tra trực tiếp thụ lý vụ án hình sự;
- Viện kiểm sát các cấp;
- Toà án nhân dân các cấp.
Các cơ quan nói trên đều có trách nhiệm trong việc bảo vệ người làm chứng. Tuy nhiên, trách nhiệm của các cơ quan trên trong việc bảo vệ người làm chứng có sự khác nhau. Trong đó, Cơ quan điều tra là cơ quan chính và duy nhất có thẩm quyền quyết định và tổ chức thực hiện bảo vệ người làm chứng, còn Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan được giao điều tra có trách nhiệm đề nghị khi có căn cứ. Đây là cơ chế phối hợp nhằm đảm bảo người làm chứng được bảo vệ kịp thời, đúng pháp luật.
3. Quy định pháp luật về trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc bảo vệ người làm chứng:
Cơ quan điều tra là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng, có chức năng phát hiện, khởi tố, điều tra tội phạm theo quy định của pháp luật hình sự. Theo Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015, hệ thống cơ quan điều tra bao gồm:
- Cơ quan điều tra của Công an nhân dân;
- Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân;
- Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, Cơ quan điều tra của Công an nhân dân, Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân các cấp là đơn vị trực tiếp ra quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp bảo vệ người làm chứng khi có căn cứ xác định họ đang bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp khác.
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, tuy không trực tiếp ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ, có thể báo cáo lên Viện trưởng viện kiểm sát có văn bản đề nghị đến Cơ quan điều tra cấp Bộ ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ.
3.1. Thẩm quyền trực tiếp ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ người làm chứng:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 485 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2025, người có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ người làm chứng trong Cơ quan điều tra là:
- Thủ trưởng;
- Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra;
- Điều tra viên trung cấp, Điều tra viên cao cấp là Trưởng Công an cấp xã hoặc Phó Trưởng Công an cấp xã được Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh phân công tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra vụ án về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng xảy ra trên địa bàn cấp xã.
Những chủ thể nói trên có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ người làm chứng trong các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan mình.
3.2. Xử lý đề nghị bảo vệ người làm chứng từ các cơ quan khác:
Ngoài việc trực tiếp ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ người làm chứng, Cơ quan điều tra khi nhận được đề nghị từ người được bảo vệ hoặc từ Viện kiểm sát, Toà án hoặc các cơ quan khác có thẩm quyền, Cơ quan điều tra phải:
- Kiểm tra, xác minh căn cứ và tính xác thực của đề nghị hoặc yêu cầu;
- Nếu thấy có căn cứ, phải ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ kịp thời để đảm bảo an toàn cho người làm chứng;
- Trường hợp không chấp nhận đề nghị, phải giải thích rõ lý do từ chối.
3.3. Trách nhiệm lập hồ sơ bảo vệ người làm chứng:
Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ phải lập hồ sơ bảo vệ bao gồm:
- Văn bản đề nghị, yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ; biên bản về việc đề nghị, yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ;
- Kết quả xác minh về hành vi xâm hại hoặc đe dọa xâm hại tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ;
- Tài liệu về hậu quả thiệt hại đã xảy ra (nếu có) và việc xử lý của cơ quan có thẩm quyền;
- Văn bản yêu cầu, đề nghị thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp bảo vệ;
- Quyết định áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp bảo vệ;
- Tài liệu phản ánh diễn biến quá trình áp dụng biện pháp bảo vệ;
- Văn bản yêu cầu, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân phối hợp bảo vệ;
- Báo cáo kết quả thực hiện biện pháp bảo vệ;
- Quyết định chấm dứt biện pháp bảo vệ;
- Các văn bản, tài liệu khác có liên quan đến việc bảo vệ.
3.4. Tổ chức thực hiện biện pháp bảo vệ người làm chứng:
Sau khi ra quyết định, Cơ quan điều tra tổ chức triển khai biện pháp bảo vệ, yêu cầu, đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân phối hợp bảo vệ người làm chứng theo quy định của pháp luật. Khi có yêu cầu, đề nghị thay đổi, bổ sung, huỷ bỏ biện pháp bảo vệ, Cơ quan điều tra xem xét, ra quyết định áp dụng, thay đổi, bổ sung, huỷ bỏ biện pháp bảo vệ người làm chứng. Khi không còn căn cứ, cơ quan điều tra có trách nhiệm ra quyết định chấm dứt áp dụng biện pháp bảo vệ và thông báo cho người làm chứng và các cơ quan liên quan biết.
Theo đó, Cơ quan điều tra có vai trò then chốt trong các cơ quan có trách nhiệm bảo vệ người làm chứng. Với chức năng chuyên môn sâu, phạm vi hoạt động rộng và thẩm quyền quyết định biện pháp bảo vệ, cơ quan điều tra là lực lượng chủ lực đảm bảo an toàn cho người làm chứng – từ đó góp phần bảo đảm hiệu quả công tác điều tra, truy tố và xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
4. Quy định của pháp luật về trách nhiệm của Viện kiểm sát và Tòa án trong bảo vệ người làm chứng:
Trong hệ thống cơ quan tiến hành tố tụng, Viện kiểm sát và Tòa án tuy không trực tiếp ra quyết định bảo vệ, nhưng lại có trách nhiệm đề nghị Cơ quan điều tra áp dụng biện pháp bảo vệ người làm chứng nếu xét thấy cần thiết.
Theo khoản 3 Điều 485 và khoản 3 Điều 487 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2025, các trường hợp Viện kiểm sát và Toà án phải đề nghị Cơ quan điều tra áp dụng biện pháp bảo vệ người làm chứng bao gồm:
- Khi nhận được đề nghị, yêu cầu bảo vệ (bằng văn bản, trừ trường hợp khẩn cấp) có căn cứ của người được bảo vệ;
- Khi phát hiện người làm chứng hoặc người thân thích của họ bị đe dọa tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp khác.
Khi thuộc các trường hợp trên, Viện kiểm sát và Toà án phải đề nghị bằng văn bản tới Cơ quan điều tra, nội dung bao gồm:
- Ngày, tháng, năm lập văn bản;
- Tên, địa chỉ của cơ quan đề nghị;
- Lý do và nội dung cụ thể của đề nghị bảo vệ;
- Chữ ký của người có thẩm quyền và đóng dấu của cơ quan.
Sau khi nhận được đề nghị của Viện kiểm sát hoặc Toà án, Cơ quan điều tra sẽ có trách nhiệm kiểm tra, xác minh và ra quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp bảo vệ; nếu từ chối, phải giải thích rõ lý do cho cơ quan đã đề nghị.
Như vậy Viện kiểm sát và Tòa án cũng có trách nhiệm bảo vệ người làm chứng, duy trì sự an toàn và minh bạch trong tố tụng hình sự thông qua cơ chế đề nghị Cơ quan điều tra áp dụng biện pháp bảo vệ người làm chứng nói trên.
5. Cơ quan tiến hành tố tụng vi phạm trách nhiệm bảo vệ người làm chứng thì bị xử lý như nào?
Khi cơ quan tiến hành tố tụng không thực hiện đúng hoặc thiếu trách nhiệm trong bảo vệ người làm chứng, người bị thiệt hại có quyền khiếu nại, tố cáo theo quy định pháp luật. Các biện pháp xử lý đối với người có hành vi vi phạm có thể gồm:
- Xử lý kỷ luật nội bộ: Việc không thực hiện đúng và đầy đủ trách nhiệm bảo vệ dẫn đến gây ra thiệt hại cho người làm chứng, cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng hình thức kỷ luật như khiển trách, cảnh cáo, thậm chí cách chức;
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Nếu việc cơ quan tiến hành tố tụng vi phạm trách nhiệm bảo vệ người làm chứng dẫn đến người làm chứng bị thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, tài sản…, họ có thể khởi kiện yêu cầu bồi thường;
- Truy cứu trách nhiệm hình sự:Trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng, thiếu trách nhiệm bảo vệ người làm chứng gây hậu quả nghiêm trọng có thể bị xử lý hình sự nếu hành vi cấu thành tội phạm (ví dụ: Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng).
Kết luận:
Người làm chứng – dù không trực tiếp liên quan đến hành vi phạm tội hay tranh chấp – lại là “mắt xích” quan trọng giúp soi sáng sự thật khách quan trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên, nếu không được bảo vệ đúng mức, họ có thể trở thành nạn nhân của những hành vi trả thù, đe dọa, gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe, danh dự, thậm chí là tính mạng.
Pháp luật Việt Nam đã và đang ngày càng hoàn thiện để kịp thời bảo vệ người làm chứng – từ quy định về quyền yêu cầu bảo vệ, cơ chế xử lý khi có hành vi đe dọa, đến trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan tiến hành tố tụng. Cơ quan điều tra giữ vai trò trung tâm trong việc tổ chức và thực hiện biện pháp bảo vệ, trong khi Viện kiểm sát và Tòa án có trách nhiệm phát hiện và đề nghị kịp thời.
Tôn trọng và bảo vệ người làm chứng không chỉ là một quy định pháp lý – mà còn là thước đo của công lý, của niềm tin mà người dân đặt vào hệ thống tư pháp. Muốn bảo vệ công lý, trước hết phải bảo vệ sự dũng cảm và trung thực của những người làm chứng cho sự thật.
THAM KHẢO THÊM: