Tem, vé là công cụ quan trọng trong quản lý kinh tế - hành chính. Tuy nhiên, tình trạng làm, buôn bán tem giả, vé giả vẫn diễn ra với nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn. Để ngăn chặn hành vi này, Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả tại Điều 202 nhằm bảo vệ trật tự quản lý kinh tế và sự minh bạch của thị trường.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả:
- 5 5. Phân biệt với Tội sản xuất, buôn bán hàng giả:
- 6 6. Các biện pháp ngăn chặn hành vi làm, buôn bán tem giả hoặc vé giả:
1. Khái quát chung về Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả:
1.1. Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả là gì?
Trong thực tế, tình trạng làm và buôn bán tem giả, vé giả diễn ra khá phổ biến; đặc biệt là trong các lĩnh vực như: bưu chính, giao thông vận tải, văn hóa – giải trí và dịch vụ công. Các đối tượng phạm tội thường làm giả vé xe, vé tàu, vé xem biểu diễn nghệ thuật, thể thao… cũng như tem hàng hóa, tem thuế để trục lợi cá nhân trái quy định của pháp luật. Hành vi này không chỉ gây thiệt hại kinh tế cho Nhà nước, doanh nghiệp và người dân mà còn tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động gian lận hoặc trốn thuế.
Thực tiễn xét xử cho thấy, các vụ án liên quan đến tem giả, vé giả thường có tính chất tổ chức và thủ đoạn vô cùng tinh vi, làm suy giảm niềm tin của xã hội vào sự minh bạch trong quản lý kinh tế. Tội danh này hiện nay đang được quy định tại Điều 202 Điều 202 Bộ luật hình sự 2015. Có thể đưa ra khái niệm như sau:
“Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả là hành vi của cá nhân hoặc tổ chức cố ý sản xuất, tiêu thụ các loại tem hoặc vé được làm giả nhằm sử dụng hoặc trao đổi bất hợp pháp để thu lợi. Khác với hàng giả thông thường, tem và vé giả chủ yếu gắn liền với quản lý hành chính – kinh tế (như tem thuế, vé giao thông, vé sự kiện), do đó hành vi này trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, tài chính và hoạt động lưu thông hợp pháp.”
1.2. Ý nghĩa của Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả trong pháp luật hình sự:
Việc quy định và xử lý hình sự đối với hành vi làm, buôn bán tem giả, vé giả có những ý nghĩa sau:
- Thứ nhất, bảo đảm trật tự quản lý kinh tế – tài chính: Tem, vé là công cụ quan trọng trong quản lý thuế, kiểm soát hàng hóa và dịch vụ. Xử lý nghiêm hành vi làm giả giúp duy trì kỷ cương quản lý.
- Thứ hai, ngăn chặn gian lận, trốn thuế và thất thoát ngân sách: Tem giả, vé giả thường được sử dụng để che giấu hành vi trốn thuế và gây thất thoát lớn cho Nhà nước.
- Thứ ba, bảo vệ quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và người tiêu dùng: Người dân mua phải vé giả, tem giả sẽ chịu thiệt hại trực tiếp. Đồng thời các doanh nghiệp cũng mất uy tín và doanh thu.
- Thứ tư, khẳng định tính minh bạch và nghiêm minh của pháp luật: Quy định tội danh này cho thấy Nhà nước coi trọng việc phòng ngừa, trừng trị hành vi gian lận trong lĩnh vực quản lý tem, vé cũng như góp phần củng cố niềm tin xã hội.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả:
Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả hiện nay được quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào làm, buôn bán các loại tem giả, vé giả thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Tem giả, vé giả không có mệnh giá có số lượng từ 15.000 đến dưới 30.000 đơn vị;
b) Tem giả, vé giả có mệnh giá có tổng trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
c) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
d) Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Tem giả, vé giả không có mệnh giá có số lượng 30.000 đơn vị trở lên;
d) Tem giả, vé giả có mệnh giá có tổng trị giá 200.000.000 đồng trở lên;
đ) Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả:
2.1. Khách thể:
Tội làm, buôn bán tem giả, vé xâm phạm trực tiếp đến: Hoạt động quản lý thị trường của Nhà nước đối với việc sản xuất, kinh doanh, buôn bán các loại hàng hóa được phép sản xuất, kinh doanh, buôn bán và sử dụng trên thị trường.
Đồng thời, tội phạm này còn xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sản xuất, kinh doanh hàng hóa và người tiêu dùng.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả là: Hành vi làm tem giả, vé giả và hành vi buôn bán tem giả, vé giả.
Điều 202 quy định 02 tội danh gồm:
- Tội làm tem giả, vé giả;
- Tội buôn bán tem giả, vé giả.
Cụ thể:
Người phạm tội làm tem giả, vé giả chỉ có một hành vi khách quan là làm ra các loại tem/vé giả bằng nhiều phương pháp và thủ đoạn khác nhau như: in ấn, sao chụp, vẽ hoặc bằng thủ khác để làm ra các loại tem, các loại vé giống như tem/vé thật nhằm đánh lừa người khác.
Nhìn chung, hành vi làm tem giả, vé giả cũng tương tự như hành vi làm hàng giả. Nhưng hàng giả ở đây lại là các loại tem/vé (loại hàng đặc biệt), loại hàng này có thể có giá trị đem mua bán nhưng cũng có thể không đem mua bán được; nó chỉ có ý nghĩa xác định giá trị hàng hoá hoặc vật phẩm.
Người phạm tội buôn bán tem giả, vé giả có thể thực hiện một trong các hành vi như:
- Mua, xin, tàng trữ, vận chuyển tem giả, vé giả nhằm bán lại cho người khác;
- Dùng tem giả, vé giả để trao đổi, thanh toán;
- Dùng tài sản (không phải là tiền) đem trao đổi, thanh toán… lấy tem giả, vé giả để bán lại cho người khác.
Trong trường hợp người phạm tội làm ra tem giả, vé giả rồi đem bán tem/vé giả đó thì không thuộc trường hợp “Buôn bán tem giả, vé giả” mà họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cả 02 tội “Làm và buôn bán tem giả, vé giả”.
Đối với Tội làm, buôn bán tem, vé giả thì dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc. Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả có cấu thành hình thức. Người thực hiện hành vi làm, hành vi buôn bán tem giả, vé giả bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp cụ thể như sau:
- Tem giả, vé giả không có mệnh giá có số lượng từ 15.000 đến dưới 30.000 đơn vị:
Đây là trường hợp hành vi làm, buôn bán tem, vé giả với số lượng lớn mặc dù không xác định được giá trị cụ thể bằng tiền (do không có mệnh giá). Số lượng từ 15.000 đơn vị trở lên cho thấy tính chất quy mô của hành vi, tiềm ẩn nguy cơ lưu hành rộng rãi và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường cũng như hoạt động quản lý hành chính. Do đó pháp luật coi đây là tình tiết đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự mà không cần phải chứng minh hậu quả cụ thể.
- Tem giả, vé giả có mệnh giá có tổng trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng:
Khi tem, vé giả có mệnh giá thì giá trị kinh tế của chúng sẽ được lượng hóa rõ ràng. Tổng trị giá từ 50 triệu đồng trở lên phản ánh quy mô và hậu quả kinh tế đáng kể của hành vi phạm tội. Đây là ngưỡng xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội bởi giá trị càng lớn thì thiệt hại cho Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng càng cao. Việc đặt mốc dưới 200 triệu đồng giúp phân hóa giữa khung hình phạt cơ bản và tăng nặng.
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm:
Trường hợp này phản ánh thái độ coi thường pháp luật của người phạm tội. Dù đã từng bị xử phạt hành chính hoặc kết án về hành vi làm, buôn bán tem, vé giả nhưng khi chưa được xóa án tích vẫn tiếp tục vi phạm. Điều này chứng tỏ ý thức pháp luật kém, khả năng tái phạm cao nên hành vi được coi là nghiêm trọng hơn và cần xử lý bằng chế tài hình sự để bảo đảm tính răn đe.
- Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng:
Lợi ích vật chất mà người phạm tội thu được là một trong những tiêu chí quan trọng để xác định mức độ nguy hiểm. Khi khoản thu lợi bất chính đạt từ 30 triệu đồng, tức là hành vi đã mang lại lợi ích kinh tế đáng kể cho người phạm tội và gây ra thiệt hại tương ứng cho Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Việc xác định rõ giá trị thu lợi bất chính giúp cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá chính xác tính chất vụ án và áp dụng hình phạt phù hợp.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả được thực hiện với lỗi cố ý. Chủ thể thực hiện tội phạm nhận thức rõ mặt hàng mà mình sản xuất, buôn bán là hàng giả nhưng vẫn cố tình và mong muốn thực hiện tội phạm vì mục đích trục lợi.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả là chủ thể thường. Bất cứ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên và không thuộc trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh này khi thỏa mãn đầy đủ yếu tố khác của cấu thành tội phạm.
3. Khung hình phạt của Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả:
Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả theo Điều 202 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt sau:
- Khung 1: Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả được quy định tại khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự 2015 với khung hình phạt là phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Bao gồm:
- Có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự 2015:
Phạm tội có tổ chức nghĩa là hành vi làm, buôn bán tem/vé giả được thực hiện bởi một nhóm người có sự cấu kết chặt chẽ, phân công vai trò cụ thể như người sản xuất, người tiêu thụ, người vận chuyển hoặc người thu lợi. Đây là hình thức phạm tội nguy hiểm bởi tính chất chuyên nghiệp, quy mô lớn, gây hậu quả nghiêm trọng và khó bị phát hiện. Vì vậy pháp luật xếp đây là tình tiết tăng nặng để có thể áp dụng hình phạt nghiêm khắc hơn.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn theo điểm b điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi người phạm tội lợi dụng vị trí và quyền hạn trong cơ quan, tổ chức để thực hiện hoặc bao che cho hành vi làm, buôn bán tem/vé giả thì mức độ nguy hiểm càng cao. Họ không chỉ vi phạm pháp luật mà còn làm suy giảm uy tín, niềm tin của nhân dân vào cơ quan và tổ chức Nhà nước. Do đó, pháp luật quy định đây là tình tiết tăng nặng nhằm răn đe những người có chức vụ không được lợi dụng vị trí để phạm tội.
- Tem giả, vé giả không có mệnh giá có số lượng 30.000 đơn vị trở lên theo điểm c điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự 2015:
Số lượng tem/vé giả không có mệnh giá đạt mức từ 30.000 đơn vị trở lên cho thấy quy mô phạm tội rất lớn. Hậu quả có thể gây mất ổn định thị trường, gây thiệt hại cho nhiều tổ chức, cá nhân cũng như Nhà nước. Hành vi này thể hiện tính chất đặc biệt nghiêm trọng, vì thế được coi là tình tiết tăng nặng khung hình phạt để xử lý nghiêm minh hơn.
- Tem giả, vé giả có mệnh giá có tổng trị giá 200.000.000 đồng trở lên theo điểm d điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự 2015:
Khác với số lượng, ở đây pháp luật chú trọng đến giá trị mệnh giá của tem, vé giả. Khi tổng trị giá từ 200 triệu đồng trở lên thì mức độ thiệt hại kinh tế cho Nhà nước và xã hội là rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích công cộng và trật tự quản lý kinh tế. Vì vậy tình tiết này được coi là yếu tố định khung để áp dụng hình phạt nặng hơn.
- Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên theo điểm đ điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự 2015:
Hành vi làm, buôn bán tem/vé giả với mục đích trục lợi là bản chất nguy hiểm của tội phạm này. Khi khoản thu lợi bất chính đạt từ 100 triệu đồng trở lên, tức là người phạm tội đã thu được lợi ích kinh tế rất lớn từ hoạt động phạm pháp, gây hậu quả nghiêm trọng cho Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Đây là tình tiết tăng nặng nhằm xử lý thích đáng hành vi trục lợi bất chính ở quy mô lớn.
- Tái phạm nguy hiểm theo điểm e điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự 2015:
Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
+ Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
+ Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
5. Phân biệt với Tội sản xuất, buôn bán hàng giả:
Tiêu chí | Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả (Điều 202 Bộ luật Hình 2015) |
Khách thể bị xâm phạm | Trật tự quản lý kinh tế, quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, doanh nghiệp và Nhà nước. | Trật tự quản lý kinh tế, sự minh bạch trong quản lý tem, vé; quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân. |
Đối tượng tác động | Hàng hóa giả mạo (giống hàng thật hoặc có cùng công dụng, kỹ thuật), có thể gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người và thiệt hại tài sản. | Tem/vé giả (có hoặc không có mệnh giá), chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động quản lý kinh tế, giao dịch hành chính và tài chính. |
Hành vi phạm tội | Sản xuất và buôn bán hàng giả với nhiều mục đích (trục lợi, kinh doanh bất chính). | Làm, buôn bán tem và vé giả để lưu hành và sử dụng bất hợp pháp. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. | Khung 1: Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Tính chất, mức độ nguy hiểm | Nguy hiểm cao, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng con người và gây thiệt hại lớn về kinh tế – xã hội. | Chủ yếu gây thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng đến trật tự quản lý tài chính – hành chính, ít trực tiếp đe dọa tính mạng, sức khỏe. |
Ý nghĩa pháp lý | Bảo vệ người tiêu dùng, doanh nghiệp chân chính, trật tự quản lý thị trường và ngăn chặn hàng giả lưu hành rộng rãi. | Bảo đảm tính minh bạch trong quản lý tem, vé (bưu chính, giao thông và sự kiện…), ngăn ngừa gian lận trong giao dịch hành chính và kinh tế. |
6. Các biện pháp ngăn chặn hành vi làm, buôn bán tem giả hoặc vé giả:
6.1. Hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế quản lý tem, vé:
Một trong những biện pháp quan trọng là hoàn thiện các quy định pháp luật về in ấn, phát hành và quản lý tem/vé. Nhà nước cần ban hành quy chuẩn kỹ thuật thống nhất, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc phát hành và quản lý, đồng thời xây dựng cơ chế giám sát chặt chẽ từ khâu thiết kế, in ấn đến lưu thông. Khi khung pháp lý đầy đủ và minh bạch, hành vi làm và buôn bán tem/vé giả sẽ khó có cơ hội phát sinh.
6.2. Ứng dụng công nghệ chống giả trong tem, vé:
Tem, vé là công cụ quản lý kinh tế – hành chính nên rất dễ bị làm giả nếu không có biện pháp kỹ thuật bảo vệ. Vì vậy cần áp dụng các công nghệ hiện đại như: Mã QR, tem điện tử, chip bảo mật, hình ảnh 3D… hoặc công nghệ phát sáng đặc biệt để chống sao chép và làm giả. Việc kết hợp công nghệ cao sẽ giúp người tiêu dùng, doanh nghiệp và cơ quan chức năng dễ dàng phân biệt thật/giả, từ đó giảm thiểu đáng kể khả năng lưu hành tem/vé giả trên thị trường.
6.3. Tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm vi phạm:
Hoạt động thanh tra và kiểm tra cần được tiến hành thường xuyên đối với các cơ sở in ấn, phát hành vé/tem cũng như các đơn vị kinh doanh dịch vụ có sử dụng vé, tem. Khi phát hiện sai phạm, cơ quan chức năng phải xử lý kịp thời, công khai và minh bạch, tránh tình trạng dung túng hoặc bỏ lọt hành vi phạm tội. Việc xử lý nghiêm minh (nhất là bằng chế tài hình sự theo Điều 202 Bộ luật Hình sự 2015) sẽ có tác dụng răn đe và ngăn ngừa vi phạm trong thực tiễn.
6.4. Nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật của người dân và doanh nghiệp:
Một nguyên nhân khiến tem, vé giả vẫn tồn tại là do nhiều người tiêu dùng và doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc thắt chặt kiểm tra. Vì vậy, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền và phổ biến kiến thức pháp luật, đồng thời hướng dẫn kỹ năng phân biệt tem, vé thật/giả cho cộng đồng. Khi người dân nâng cao cảnh giác và có thói quen kiểm chứng thì thị trường sẽ tự sàng lọc, từ đó hạn chế đáng kể hành vi tiêu thụ sản phẩm giả.
THAM KHẢO THÊM: