Thực nghiệm điều tra. Các hình thức thực nghiệm điều tra. Các loại thực nghiệm điều tra. Cách xác định các loại thực nghiệm điều tra.
Thực nghiệm điều tra. Các hình thức thực nghiệm điều tra. Các loại thực nghiệm điều tra. Cách xác định các loại thực nghiệm điều tra.
Cơ sở pháp lí của biện pháp điều tra này được quy định tại Khoản 1, Điều 153 Bộ luật tố tụng hình sự, cụ thể như sau:
“Để kiểm tra và xác minh những tài liệu, những tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án, cơ quan điều tra có quyền thực nghiệm điều tra bằng cách dựng lại hiền trường, diễn lại hành vi, tình huống hoặc mọi tình tiết khác của một sự việc nhất định và tiến hành các hoạt động thực nghiệm cần thiết. Khi thấy cần, có thể đo đạc, chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ”.
Theo đó, thực nghiệm điều tra là biện pháp điều tra được tiến hành thông qua các hoạt động thí nghiệm, thực nghiệm đặc biệt trong điều kiện tương tự như điều kiện mà hành vi, sự việc, hiện tượng cần kiểm tra, xác minh đã diễn ra trước đây để có cơ sở khách quan kết luận về hành vi, sự việc, hiện tượng đó phục vụ công tác điều tra, xử lí vụ án hình sự.
Trước hết, thực nghiệm điều tra là một biện pháp điều tra, thực hiện thông qua hoạt động thí nghiệm, thực nghiệm đặc biệt. Thí nghiệm hiểu một cách nôm na có nghĩa là “làm thử”. Thực nghiệm hiểu một cách khái quát có nghĩa là “làm thật” hay “diễn lại”. Tính đặc biệt của hoạt động thí nghiệm, thực nghiệm này được thể hiện ở chỗ, việc tiến hành thực nghiệm phải tuân theo các quy định của pháp luật, các khung pháp lí nhất định. Mặt khác, kết quả của nó được sử dụng làm bằng chứng để kết tội một con người.
Cơ sở để tổ chức thực nghiệm điều tra là lời khai của những người tham gia tố tụng (bị can, người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng…) hay giả thuyết điều tra của điều tra viên về hành vi, sự việc, hiện tượng cần kiểm tra, xác minh bằng cách thực hiện lại những hành vi, sự việc, hiện tượng trong điều kiện tương tự như điều kiện mà hành vi, sự việc, hiện tượng đó đã diễn ra trước đây.
* Các hình thức thực nghiệm điều tra
Thực nghiệm điều tra có thể được tiến hành dưới hai hình thức: diễn lại và làm thử.
– Diễn lại
Diễn lại là trường hợp căn cứ vào lời khai của bị can, người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng, cơ quan điều tra tổ chức cho họ làm lại, nghe lại, nhìn lại hành vi, sự việc, hiện tượng mà họ khai là đã làm, đã nghe, đã nhìn thấy để có cơ sở khách quan kết luận về lời khai của họ và các tài liệu, tình tiết đã thu thập được.
– Làm thử
Làm thử là trường hợp căn cứ vào tài liệu đã thu thập được, kinh nghiệm thực tế điều tra và các giả thuyết điều tra đã được xây dựng, cơ quan điều tra tổ chức tái tạo lại điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, đưa người và phương tiện cần thiết để tiến hành các hoạt động có tính chất thí nghiệm nhằm xác định khả năng xảy ra của sự việc, hiện tượng và mức độ của nó, làm cơ sở khách quan kết luận về các tài liệu đó hoặc giả thuyết điều tra.
* Các loại thực nghiệm điều tra
– Thực nghiệm điều tra nhằm xác định khả năng tri giác một sự việc, hiện tượng nhất định
+ Khái niệm: Là hoạt động của cơ quan điều tra nhằm tổ chức cho một người diễn lại việc họ khai đã tri giác trong điều kiện tương tự như lời khai của họ để xác định xem họ có thụ cảm được việc đó hay không? Mức độ cụ thể phù hợp với lời khai đã khai như thế nào?…
+ Mục đích: Đây là loại thực nghiệm điều tra được tiến hành nhằm mục đích kiểm tra khả năng tri giác của một người tham gia tố tụng cụ thể đối với một tình tiết, hiện tượng nào đó của vụ án trên cơ sở đó kết luận tính khách quan trong lời khai của họ. Khả năng tri giác ở đây nói một cách dễ hiểu nghĩa là khả năng nghe nhìn của người bị tạm giữ, bị can, người làm chứng, người bị hại.
+ Cơ sở tiến hành: Nội dung lời khai của người tham gia tố tụng (người bị tạm giữ, bị can, người làm chứng, người bị hại) về việc mà họ khai là đã tri giác (nghe nhìn) được.
+ Hình thức: Diễn lại
+ Điều kiện chiến thuật: Khi tổ chức loại thực nghiệm điều tra này, cần tái tạo điều kiện, hoàn cảnh tiến hành thực nghiệm giống ở mức tối đa với điều kiện, hoàn cảnh khi sự việc, hiện tượng xảy ra trong thực tế trước đây, bao gồm hai loại điều kiện cơ bản là yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan. Yêu tố khách quan bao gồm: địa điểm, thời gian, không gian… Phải lựa chọn một cách thích hợp để đảm bảo các vấn đề về ánh sáng, khoảng cách, thời tiết…tương đồng ở mức tối đa. Yếu tố chủ quan bao gồm: sức khỏe, trạng thái tâm lí… của người tri giác. Loại điều kiện này tương đối khó tái tạo, không thể tái tạo được hoàn toàn, đặc biệt là trạng thái tâm lí do đó, khi đánh giá phải hết sức khách quan.
+ Đánh giá kết quả: Kết quả đánh giá có hai dạng: Dạng phủ định và dạng khẳng định. Dạng phủ định là dạng kết quả thể hiện sự phủ nhận hoàn toàn đối với khả năng tri giác (nghe, nhìn) của người tham gia tố tụng với niềm tin tuyệt đối. Nghĩa là có thể khẳng định chắc chắn rằng người tri giác không có khả năng tri giác như lời khai của họ. Dạng khẳng định là dạng kết quả thể hiện sự khẳng định một cách tương đối đối với khả năng nghe, nhìn của người tham gia tố tụng tuy nhiên với niềm tin tương đối. Nghĩa là chỉ có thể cho rằng người tham gia tố tụng có khả năng (có thể) tri giác được như lời khai của họ.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
– Thực nghiệm điều tra nhằm xác định khả năng thực hiện một hành vi, một công việc nhất định
+ Khái niệm: Là việc cơ quan điều tra tổ chức cho người bị tạm giữ, bị can, người bị hại, người làm chứng diễn lại một hành vi, một công việc mà họ khai đã làm trong điều kiện tương tự như lời khai của họ để xem họ có thực hiện được hay không? Mức độ thực hiện như thế nào? Tương quan với lời khai của họ ra sao?…
+ Mục đích: Làm rõ một người nào đó có khả năng thực hiện được một hành vi cụ thể nào đó nói chung hay trong những điều kiện cụ thể hoặc trong một khoảng thời gian đã xác định hay không… trên cơ sở đó đánh giá tính xác trong lời khai của họ.
+ Cơ sở tiến hành: Nội dung lời khai của người tham gia tố tụng (thường là của người bị tạm giữ, bị can) về hành vi, sự việc mà họ khai là đã làm và những điều kiện chủ quan, khách quan khi họ thực hiện hành vi đó.
+ Hình thức: Diễn lại
+ Điều kiện chiến thuật: Tái tạo điều kiện, hoàn cảnh tiến hành thực nghiệm giống ở mức tối đa với điều kiện, hoàn cảnh khi hành vi, sự việc mà họ khai là đã làm được diễn ra trước đây bao gồm cả yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan.
+ Đánh giá kết quả: Tương tự như đối với loại thực nghiệm điều tra nhằm xác định khả năng tri giác một sự vật, hiện tượng nhất định, kết quả thực nghiệm gồm hai dạng: Dạng phủ định với niềm tin tuyệt đối và dạng khẳng định với niềm tin tương đối (có thể, có khả năng).
– Thực nghiệm điều tra nhằm xác định khả năng diễn ra của một sự việc, hiện tượng
+ Khái niệm: Là việc cơ quan điều tra tổ chức thí nghiệm về một sự việc, hiện tượng trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định để xác định xem sự việc, hiện tượng đó có thể xảy ra được không?Nguyên nhân, diễn biến ra sao? Có phù hợp với những tài liệu đã thu được hoặc những giả thuyết điều tra đã đặt ra hay không?…
+ Mục đích: Xác định nguyên nhân, diễn biến của sự việc, hiện tượng để có cơ sở vạch phương hướng điều tra.
+ Cơ sở tiến hành: Toàn bộ nội dung tình hình, tài liệu đã có cùng với những hiểu biết của cơ quan điều tra về sự việc, hiện tượng đó. Đối với loại thực nghiệm này, các tài liệu, chứng cứ thu thập được rất ít, bản thân chúng không thể phản ánh được quá trình phát sinh, diễn biến của sự việc, hiện tượng đã xảy ra, cần có các giải thuyết cơ sở để dựng lại hiện trường và tiến hành các hoạt động thử nghiệm cần thiết. Tuy nhiên, giải thuyết được đưa ra phải dựa trên căn cứ nhất định (chứng cứ, tài liệu thu thập được) chứ không phải dựa trên sự tưởng tượng của điều tra viên.
+ Hình thức: Làm thử
+ Điều kiện chiến thuật: Cần có sự tính toán chính xác, khoa học, bố trí điều kiện tương tự như lúc xảy ra sự việc, hiện tượng đó. Đối với các thí nghiệm có liên quan tới các lĩnh vực khoa học, kĩ thuật khác nhau cần bố trí các chuyên gia, cán bộ chuyên môn theo những lĩnh vực khoa học, kỹ thuật tương ứng tham gia. Ngoài ra cần có phương án đề phòng và khắc phục thiệt hại về người và tài sản do thực nghiệm có thể gây ra.
+ Đánh giá kết quả: Tương tự, kết quả thực nghiệm gồm hai dạng: Dạng phủ định với niềm tin tuyệt đối và dạng khẳng định với niềm tin tương đối (có thể, có khả năng).
– Thực nghiệm điều tra nhằm xác định diễn biến của những tình tiết cụ thể của sự việc xảy ra
+ Khái niệm: Là việc cơ quan điều tra tiến hành thực nghiệm để kiểm tra lời khai của người tham gia tố tụng về quá trình diễn biến của sự việc xảy ra nói chung hoặc của những tình tiết cụ thể của nó trên cơ sở đó xác định tính khách quan trong lời khai của họ.
+ Mục đích: Xác minh diễn biến của sự việc đã xảy ra, xác định xem sự việc đó có thể diễn ra đúng như mô tả của bị can, người làm chứng hay không?
+ Cơ sở tiến hành: Nội dung lời khai của người tham gia tố tụng, các điều kiện khách quan, chủ quan khi tiến hành sự việc cũng như từ những chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Thông thường, loại thực nghiệm này được tiến hành để xác minh một cách hệ thống quá trình xảy ra sự việc (diễn lại toàn bộ quá trình) hoặc một tình tiết cụ thể nào đó của sự việc.
Loại thực nghiệm này rất hay bị nhầm lẫn với loại thực nghiệm điều tra nhằm xác định khả năng thực hiện một hành vi, công việc nhất định bởi hai loại thực nghiệm khá tương đương về mặt tiến hành, cơ sở tiến hành, hình thức tiến hành cũng như điều kiện chiến thuật. Sự khác nhau cơ bản giữa hai loại thực nghiệm trên là mục đích tiến hành thực nghiệm. Một loại thực nghiệm nhằm “xác định khả năng thực hiện hành vi, công việc” còn một loại thực nghiệm nhằm “xác định diễn biến của những tình tiết cụ thể của sự việc xảy ra”.
+ Hình thức: Diễn lại.
+ Điều kiện chiến thuật: Tái tạo lại đầy đủ các điều kiện, hoàn cảnh tương tự như khi sự việc, hiện tượng cần kiểm tra đã diễn ra trước đây trong hiện thực.
+ Đánh giá kết quả: Tương tự, kết quả thực nghiệm gồm hai dạng: Dạng phủ định với niềm tin tuyệt đối và dạng khẳng định với niềm tin tương đối (có thể, có khả năng).
– Thực nghiệm điều tra nhằm xác định quá trình hình thành dấu vết của sự việc xảy ra
+ Khái niệm: Là việc cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra, xác định bằng cách nào, các dấu vết của sự việc xảy ra đã xuất hiện trên các vật mang vết, đối tượng cụ thể nào đó có thể để lại loại dấu vết này hay không.
+ Mục đích: xác định quá trình hình thành dấu vết
+ Cơ sở tiến hành: Đây là loại thực nghiệm điều tra ít được sử dụng trong thực tế, được tiến hành dựa trên cơ sở những dấu vết thu được tại hiện trường, kinh nghiệm điều tra của điều tra viên.
+ Hình thức: Làm thử.
+ Điều kiện chiến thuật: Trong những điều kiện tương tự như tại thời điểm thực hiện hành vi, tiến hành các thí nghiệm để xác định dấu vết hình thành bằng cách nào.
+ Đánh giá kết quả: kết quả thực nghiệm gồm hai dạng: Dạng phủ định với niềm tin tuyệt đối và dạng khẳng định với niềm tin tương đối (có thể, có khả năng).