Quy định của BLHS: Tái phạm là gì? Tái phạm nguy hiểm là gì? Những quy định của pháp luật liên quan đến tái phạm và tái phạm nguy hiểm.
Mục lục
- 1 1. Tái phạm là gì?
- 2 2. Tái phạm nguy hiểm là gì?
- 3 3. Quy định của bộ luật hình sự về tái phạm, tái phạm nguy hiểm
- 4 4. Tái phạm nguy hiểm đối với tội cướp tài sản
- 5 5. Có được coi là tái phạm nguy hiểm không?
- 6 6. Hình phạt trong trường hợp tái phạm
- 7 7. Trách nhiệm hình sự khi có hành vi phạm tội nhưng tái phạm
- 8 8. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình sự 2015
Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm là một trong những tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự Việt Nam 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đây là một trong những tình tiết thuộc về
1. Tái phạm là gì?
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự 2015 , tái phạm có thể hiểu là một trong hai trường hợp sau đây:
– Trường hợp người này đã bị kết án, và chưa đủ điều kiện để được xóa án tích nhưng lại phạm tội mới và tội này được thực hiện do lỗi cố ý.
– Hoặc người này phạm tội do vô ý chứ không phải cố ý nhưng lại là tội phạm rất nghiêm trọng, hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Như vậy tái phạm tức là một người chưa được xóa án tích mà lặp lại hành vi phạm tội của mình do lỗi cố ý hoặc gây ra hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Như vậy để một người được coi là tái phạm nếu người đó có một trong những dấu hiệu sau:
+ Trước khi phạm tội mới đã bị kết án về một tội phạm khác trước đó nhưng chưa được xóa án tích.
+ Về yếu tố lỗi: Có thể là lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý.
+ Về mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:
- Nếu là lỗi cố ý thì không yêu cầu mức độ nghiêm trọng.
- Nếu là lỗi vô ý thì phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Xem thêm: Các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trong xử lý vi phạm hành chính
Luật sư
Ví dụ: Tháng 03 năm 2015, Nguyễn Văn A phạm tội cướp tài sản, mức phạt 03 năm tù giam. Sau khi mãn hạn tù, đến tháng 01 năm 2019 anh A lại tiếp tục phạm tội cướp tài sản và vụ án bị đưa ra truy tố theo yêu cầu của người bị hại. Như vậy trong thời gian mới mãn hạn tù, còn chưa được xóa án tích mà anh A đã phạm tội cướp tài sản mà tội này là tội được thực hiện do lỗi cố ý vậy nên hành vi của anh A được coi là tái phạm theo quy định của pháp luật hình sự.
2. Tái phạm nguy hiểm là gì?
Tái phạm nguy hiểm là tình tiết được quy định tại khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự 2015, theo đó, tái phạm nguy hiểm được hiểu là:
+ Người phạm tội đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý trước đó, đến khi phạm tội mới vẫn chưa được xóa án tích mà tội mới này cũng là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
+ Phạm tội do lỗi cố ý không cần biết ở mức độ nào nhưng trước đó người này đã có hành vi tái phạm một lần, nhiều lần mà chưa được xóa án tích.
Như vậy, một người sẽ được coi là tái phạm nguy hiểm nếu có hành vi sau:
+ Đã từng phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng trước đó, chưa được xóa án tích.
Đã từng có hành vi tái phạm trước đó, nhưng cũng chưa được xóa án tích.
Xem thêm: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định mới nhất
+ Về yếu tố lỗi: Thực hiện dưới lỗi cố ý.
+ Về mức độ nghiêm trọng của tội mới phạm phải:
- Hành vi mới bị truy tố cũng là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Nếu trước đó đã từng có hành vi tái phạm thì không yêu cầu mức độ nghiêm trọng của tội phạm.
Ví dụ: Năm 2001, Anh H phạm tội buôn bán ma túy và bị kết án với mức phạt 17 năm tù giam, như vậy hành vi của anh H là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Sau khi ra tù 01 năm, năm 2019 anh H bị cơ quan chức năng khởi tố về tội vận chuyển trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 2 Điều 250 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với khung hình phạt từ 07 đến 15 năm, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy việc phạm tội của anh H được xem là có hành vi tái phạm nguy hiểm. Đây sẽ là tình tiết định khung hoặc tình tiết tăng nặng được áp dụng trong việc xác định mức hình phạt của anh H.
3. Quy định của bộ luật hình sự về tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Tái phạm và tái phạm nguy hiểm là một trong những tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm h Điều 52
Ở một số tội phạm, tái phạm, hoặc tái phạm nguy hiểm được coi là một tình tiết định khung, hay còn có thể hiểu như là tình tiết cấu thành tội phạm, ví dụ như là ở điểm h khoản 2 Điều 168. Tội cướp tài sản; điểm g khoản 2 Điều 173. Tội trộm cắp tài sản; điểm d, khoản 2 Điều 174.
Đối với việc áp dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì khi hành vi đã thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm thì dù có áp dụng bao nhiêu tình tiết tăng nặng cũng không làm người phạm tội phải chịu tội danh nặng hơn hay định khung hình phạt nặng hơn hành vi tội phạm mà người đó đã thực hiện, tức là Tòa án chỉ được phép tăng mức phạt trong cùng một khung hình phạt.
Lấy ví dụ như đối với tội Cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự quy định tại Điều 201 Bộ luật hình sự 2015 thì không có quy định tái phạm, hay tái phạm nguy hiểm là tình tiết cấu thành tội phạm, nên khi người phạm tội này mà có hành vi tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm thì cũng vẫn sẽ chỉ bị xét xử về tội này với khung hình phạt đã định, chứ không có tăng lên khung hình phạt cao hơn.
Việc áp dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm khi quyết định mức hình phạt đối với người phạm tội là một biện pháp mang tính răn đe, cảnh cáo người phạm tội khi có hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên trên thực tế, việc xác định hành vi như nào là tái phạm, hay tái phạm nguy hiểm vẫn còn gặp nhiều khó khăn và gây nhiều tranh cãi trong dư luận, do quy định của điều luật về hai tình tiết này vẫn chưa thực sự rõ ràng, cụ thể, dẫn đến việc áp dụng pháp luật chưa có sự thống nhất, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Chính vì vậy khi áp dụng luật cần phải cân nhắc kỹ càng để tránh những tình huống sai lầm đáng tiếc diễn ra.
Xem thêm: Hỏi về thời hạn chưa bị coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính
4. Tái phạm nguy hiểm đối với tội cướp tài sản
Điểm a và điểm b khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự quy định về tái phạm nguy hiểm là trường hợp đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, hoặc tái phạm, chưa được xoá án mà lại phạm tội do cố ý.
Theo tinh thần của Bộ luật hình sự thì tái phạm nguy hiểm có đặc điểm:
Thứ nhất, đã hai lần phạm tội đều là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, hoặc một trong hai lần đó là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, trong đó có một lần đã bị kết án. Ví dụ: Đã bị kết án về tội giết người theo khoản 2 Điều 93, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội cướp tài sản.
Thứ hai, đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý, không phân biệt tội đó là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hay tội đặc biệt nghiêm trọng.
Bộ luật hình sự năm không quy định “đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mới” thì có bị coi là tái phạm nguy hiểm hay không. Điều này đã gây ra sự không thống nhất trong thực tiễn xét xử ở các cơ quan tòa án khác nhau là khác nhau.
Có nơi áp dụng thì cho rằng Bộ luật hình sự không quy định thì không được áp dụng vì nếu áp dụng là làm xấu đi tình trạng của người phạm tội. Nhưng cũng có Tòa án khi giải quyết vụ việc liên quan cho rằng, một người đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mới còn bị coi là tái phạm nguy hiểm sao có thể loại trừ đối với người đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mới.
Như vậy thì càng phải coi những người đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mới là tái phạm nguy hiểm.
Theo tinh thần của Bộ luật Hình sự, chỉ coi là tái phạm nguy hiểm đối với trường hợp mà Bộ luật hình sự quy định “đã tái phạm…”, tức là đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xoá án tích mà còn phạm tội do cố ý thì mới bị coi là tái phạm nguy hiểm, còn nếu phạm tội do vô ý dù là tội đó là tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng, thì cũng không coi là tái phạm nguy hiểm.
Xem thêm: Trách nhiệm hình sự đối với tình tiết dùng hung khí nguy hiểm
Tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt đối với tội cướp tài sản hay bất cứ tội phạm nào khác hoàn toàn giống với tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Chỉ cần xác định lần phạm tội cướp này là thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo đùng các quy định về tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự là được, mà không cần phải xác định lần phạm tội trước đây có phải là tội cướp tài sản hay không.
5. Có được coi là tái phạm nguy hiểm không?
Tóm tắt câu hỏi:
Chào Luật sư. Em mong Luật sư giải thích cho em. Một
Luật sư tư vấn:
Căn cứ Khoản 3 Điều 8 “Bộ luật hình sự 2015”: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”
Căn cứ Điều 90 “Bộ luật hình sự 2015” quy định về Tội chống phá trại giam như sau:
“1. Người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà phá trại giam, tổ chức vượt trại giam, đánh tháo người bị giam, người bị dẫn giải hoặc trốn trại giam, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.
2. Phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.”
Xem thêm: Ăn trộm hai lần có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Điều 93 “Bộ luật hình sự 2015” quy định tội giết người:
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết nhiều người;
b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
c) Giết trẻ em;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;
Xem thêm: Bài tập tình huống về tội cưỡng đoạt tài sản
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
Xem thêm: Luật sư tư vấn về trường hợp phạm tội nhiều lần
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.
A phạm tội giết người, bị tuyên 5 năm tù thuộc quy định tại Khoản 2 Điều 93 “Bộ luật hình sự 2015”. Căn cứ Khoản 3 Điều 8 “Bộ luật hình sự 2015”, A phạm tội rất nghiêm trọng bởi khung hình phạt cao nhất đến mười lăm năm tù.
A bị kết án 4 năm 6 tháng tù tội chống phá trại giam thuộc Khoản 2 Điều 90 “Bộ luật hình sự 2015”. Căn cứ Khoản 3 Điều 8 “Bộ luật hình sự 2015”, A phạm tội rất nghiêm trọng bởi khung hình phạt cao nhất đến mười năm tù.
Căn cứ Điều 49 “Bộ luật hình sự 2015” quy định Tái phạm, tái phạm nguy hiểm:
“1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
Xem thêm: Tố cáo về hành vi cưỡng dâm
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý.”
Như vậy, A phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý theo quy định tại điểm a) Khoản 2 Điều 49 “Bộ luật hình sự 2015”, A thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.
Không phải trong mọi trường hợp phạm tội giết người đều coi là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Bởi theo quy định tại Điều 93 “Bộ luật hình sự 2015” có 2 khoản:
– Khoản 1 có khung hình phạt cao nhất là tử hình. Căn cứ Khoản 3 Điều 8 “Bộ luật hình sự 2015” là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
– Khoản 2 có khung hình phạt cao nhất mười lăm năm tù. Căn cứ Khoản 3 Điều 8 “Bộ luật hình sự 2015” là tội phạm rất nghiêm trọng.
Như vậy, phải xem xét người phạm tội bị kết án theo quy định tại khoản mấy Điều 93, từ đó căn cứ khung hình phạt cao nhất để xem đó là tội rất nghiêm trọng hay tội đặc biệt nghiêm trọng.
Xem thêm: Khi nào phạm tội giết nhiều người?
6. Hình phạt trong trường hợp tái phạm
Tóm tắt câu hỏi:
Anh của em mới vừa thi hành án xong 3 năm vì
Luật sư tư vấn:
Căn cứ Điều 64 Bộ Luật Hình sự 2009 về đương nhiên được xoá án tích:
“Những người sau đây đương nhiên được xoá án tích:
1. Người được miễn hình phạt.
2. Người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật này, nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
a) Một năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo;
b) Ba năm trong trong trường hợp hình phạt là tù đến ba năm;
c) Năm năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên ba năm đến mười lăm năm;
d) Bảy năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên mười lăm năm.”
Theo thông tin bạn cung cấp, anh bạn đã thi hành án xong 3 năm vì tội cướp giật tài sản và về được 7 tháng thì lại bị bắt vì tội trộm cắp tài sản, như vậy theo như quy định trên anh bạn chưa đủ thời hạn để xóa án tích đối với tội cướp giật tài sản.
Căn cứ khoản 1 Điều 138 Bộ Luật Hình sự về tội trộm cắp tài sản:
“1. Người nào
Như vậy, theo như căn cứ trên, với giá trị tài sản anh bạn trộm cắp là dưới 3 triệu đồng, anh bạn có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Lưu ý, việc anh bạn chưa được xóa án tích đối với bản án về tội cướp giật tài sản mà lại phạm tội mới là trộm cắp tài sản thì thời hạn để xoá án tích cũ tính từ ngày chấp hành xong bản án mới.
7. Trách nhiệm hình sự khi có hành vi phạm tội nhưng tái phạm
Tóm tắt câu hỏi:
Kính gửi Quý công ty Luật Dương Gia; Theo tôi được biết thì Quý công ty là đơn vị tiên phong, có uy tín trong lĩnh vực tư vấn pháp luật. Vậy mong Quý công ty tư vấn giúp trường hợp sau: Tôi có anh bạn, cách đây 5 năm bị bắt về tội đánh bạc và bị phạt 6 tháng án treo. Giờ bạn tôi tái phạm, trên chiếu bạc + trên người là 9.400.000 đồng. Bạn tôi bị giữ 9 ngày, giờ được cho tại ngoại chờ tòa xét xử. Vậy xin Quý công ty tư vấn giúp, nếu tòa xử thì giờ bạn tôi sẽ phải chịu những hình phạt nào, mức phạt có thể là bao nhiêu. Xin chân thành cảm ơn Quý công ty!?
Luật sư tư vấn:
Điều 248 “Bộ luật hình sự 2015” sửa đổi, bổ sung 2009 quy định tội đánh bạc như sau:
“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;
c) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”.
Bên cạnh đó, theo Công văn 80/TANDTC-PC năm 2016 thì người có hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng trở lên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, từ các quy định trên thì một người bị khởi tố về tội đáng bạc nếu đánh bạc trái phép thuộc một trong hai trường hợp sau:
– Được thua bằng tiền hoặc hiện vật có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên
– Được thua bằng tiền hoặc hiện vật có giá trị dưới 5 triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (theo Điều 249 Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung 2009), chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Ở đây, bạn của bạn có hành vi đánh bạc và giá trị thu được trên chiếu bạc cũng như trên người là 9.400.000 đồng. Đối chiếu với quy định trên thì hành vi của bạn bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 248 “Bộ luật hình sự 2015” sửa đổi, bổ sung 2009.
Mặt khác, căn cứ Điều 64 “Bộ luật hình sự 2015” quy định các trường hợp đương nhiên được xoá án tích như sau:
– Người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV của “Bộ luật hình sự 2015”, nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
+ Một năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo;
Theo thông tin mà bạn cung cấp thì bạn của bạn đã bị phạt vì tội đánh bạc lần đầu vào năm 2012 và bị phạt 6 tháng án treo. Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 64 “Bộ luật hình sự 2015” thì bạn của bạn sẽ được xóa án tích sau thời hạn một năm kể từ khi chấp hành xong bản án mà không tái phạm. Theo quy định tại Điều 49 “Bộ luật hình sự 2015” sửa đổi bổ sung năm 2009 thì tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Và những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
– Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
– Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý.
Trong trường hợp này, bạn không nêu bạn của bạn đã làm
Tuy nhiên, nếu bạn của bạn chưa được xóa án tích thì với hành vi đánh bạc mới đây của bạn bạn sẽ được xác định là hành vi tái phạm. Do đó, khi quyết định mức hình phạt dành cho bạn của bạn Tòa án sẽ xem xét đến tình tiết tăng nặng tái phạm tại điểm g, khoản 1, Điều 48 “Bộ luật hình sự 2015” sửa đổi bổ sung 2009 để quyết định.
8. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình sự 2015
Tái phạm và tái phạm nguy hiểm là những nội dung được quy định và giải thích cụ thể tại Bộ luật hình sư năm 2015, là cơ sở để đưa ra các quyết định trong quá trình điều tra, quá trình tố tụng. Đây cũng là một chế định quan trọng là căn cứ để Tòa án định tội danh và đưa ra các loại hình phạt. Theo đó đối với những người có hành vi vi phạm pháp luật có yếu tố tái phạm hoặc tái phạm là những đối tượng dù đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng vẫn ngoan cố vi phạm pháp luật nên đối với những đối tượng này thường bị áp dụng mức xử phạt nặng hơn.
Thứ nhất về vấn đề tái phạm trong pháp luật hình sự hiện hành
Theo quy định của pháp luật hình sự để xác định một đối tượng là có hành vi tái phạm phải căn cứ vào những vấn đề như sau:
– Người có hành vi vi phạm đã bị kết án: Theo đó người có hành vi thực hiện tội phạm trước đây đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội nào đó và bị Tòa án tuyên án bằng một hình thức xử phạt được quy định theo quy định của Bộ Luật hình sự 2015. Quy định về việc tái phạm đối với người đã từng bị kết án không phụ thuộc vào loại tội phạm nào, tội danh gì, mức độ truy cứu trách nhiệm là như thế nào, chỉ cần xác định người này đã từng bị kết án vì hành vi vi phạm pháp luật hình sự trước đó. Và phải xác định nếu như người có hành vi phạm tội đã từng bị kết án và tại thời điểm hại tại vẫn chưa được xóa án tích theo quy định của pháp luật. Theo đó, người này vẫn chưa được xóa án tích theo trường hợp đơn phương xóa án tích, xóa án tích theo quyết định của Tòa án, xóa án tích trong trường hợp đặc biệt.
– Người có hành vi thực hiện tội phạm mới với lỗi cố ý thực hiện hành vi, hoặc với lỗi vô ý hoặc cố ý với các tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của pháp luật hình sự. Như vậy, đối vơi yếu tố này ta có thể xác định, nếu như tội mới của người vi phạm thực hiện hành vi phạm tội với bất kỳ tội danh nào nhưng với lỗi cố ý thực hiện phạm tội, tức người thực hiện hành vi này biết rõ sự nguy hiểm của hành vi nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi của mình hoặc không thực hiện hành vi để mặc hậu quả xảy ra. Ngoài ra nếu như người này thực hiện các hành vi khác mặc dù là lỗi vô ý nhưng để lại hậu quả nghiêm trọng và xác định vào tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của pháp luật.
Do đó, đối với người nào thực hiện hành vi phạm tội có đủ những căn cứ nêu trên thì hành vi của người này được xem là hành vi tái phạm. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng cần phải xác định yếu tố tái phạm chỉ phát sinh khi người có hành vi vi phạm có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội mới. Nếu như hành vi vi phạm sau không đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì không được áp dụng yếu tố tái phạm. Ngoài ra nếu việc tái phạm của người thực hiện hành vi là tình tiết định tội hay là tình tiết định khung hình phạt thì sẽ không được áp dụng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nữa.
Thứ hai, về vấn đề tái phạm nguy hiểm trong pháp luật hình sự hiện hành
Hành vi vi phạm pháp luật được xác định là hành vi tái phạm nguy hiểm thường có mức độ nguy hiểm nghiêm trọng. Về tính chất và mức độ của của hành vi tái phạm nguy hiểm có mức độ nguy hiểm cho người khác và xã hội cao hơn rất nhiều so với hành vi tái phạm. Và theo quy định của pháp luật để xác định người vi phạm pháp luật có thuộc vào trường hợp tái phạm nguy hiểm hay không thì phải căn cứ vào những căn cứ như sau:
– Người phạm tội thuộc vào trường hợp tái phạm. Tức là trước lần bị đưa xét xử này, người có thực hiện hành vi vi phạm đã bị Tòa án kết án 2 lần về các hành vi phạm tội trước đó theo quy định của pháp luật và đã từng bị áp dụng tình tiết tái phạm ở lần xét xử thứ hai theo bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án có yếu tố tái phạm này người thực hiện hành vi phạm tội chưa đủ điều kiện xóa án tích hoặc chưa tiến hành xóa án tích mà phạm tội mới dù bất kỳ tội nào có thể là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nhiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng do lỗi cố ý thì được xác định thuộc vào trường hợp tái phạm nguy hiểm. Ví dụ anh A đã bị kết án đối với tội cướp tài sản, sau đó bị coi là tái phạm do phạm tội cướp giật tài sản , anh A sẽ bị coi là tái phạm nguy hiểm nếu tiếp tục phạm tội trộm cắp tài sản.
– Người thực hiện hành vi phạm tội thuộc vào trường hợp đã Tòa án bị kết án ở bản án trước về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do lỗi cố ý và chưa được xoá án tích nhưng vẫn có hành vi cố ý thực hiện tôị phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng thì thuộc vào trường hợp tái phạm nguy hiểm. Ví dụ: Anh B từng bị kết án tội cướp giật tài sản do cố ý , chưa được xóa án tích mà lại phạm
Thứ ba, về áp dụng hình thức xử phạt đối với trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo quy định của pháp luật hiện hành
Đối với việc áp dụng hình thức xử phạt đối với những hành vi phạm tội có yếu tố tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo quy định của pháp luật hiện hành thì đối với yếu tố tái phạm, tái phạm nguy hiểm hầu như được quy định để lấy căn cứ để xác định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên nếu như lấy các tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì yếu tố này sẽ không áp dụng là tình tiết định tội nữa.
Luật sư tư vấn về trách nhiệm hình sự đối với hành vi đánh bạc:1900.6568
Ví dụ: Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự 2015, về dấu hiệu cấu thành tội phạm truy cứu trách nhiệm hình sự là người nào có hành vi có thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác từ 2 triệu đồng trở lên đến dưới 50 triệu đồng thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: Tuy nhiên cũng là hành vi có thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác với giá trị tài sản với giá trị tài sản đó nhưng nếu hành vi này có xác định yếu tố tái phạm nguy hiểm thì khung hình phạt của hành vi này sẽ có mức phạt nặng hơn. Theo đó hành vi vi phạm có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm và có yếu tố tái phạm nguy hiểm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm với mức hình phạt tù từ 2 năm đến 7 năm tù.
Như vậy, đối với những hành vi có yếu tố tái phạm, tái phạm nguy hiểm khi áp dụng mức hình phạt sẽ luôn có mức phạt nặng hơn với những hành vi không có yếu tố tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Nó được xem là cách áp dụng phù hợp, là việc răn đe đối với những đối tượng ngoan cố thực hiện hành vi vi phạm pháp luật dù trước đó đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự.