Quấy rối tình dục bằng lời nói và cử chỉ không chỉ gây ra những tổn thương về tâm lý mà còn có thể dẫn đến những hậu quả pháp lý nghiêm trọng cho người vi phạm. Vậy, những hành vi này sẽ bị xử lý như thế nào theo pháp luật hiện hành? Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Hành vi quấy rối tình dục bằng lời nói, cử chỉ thì sẽ bị xử lý thế nào?
1.1. Xử phạt vi phạm hành chính:
Mặc dù những hành vi quấy rối tình dục này không đủ nghiêm trọng để bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các tội danh như hiếp dâm, cưỡng dâm hay dâm ô trẻ em dưới 16 tuổi, nhưng những hành vi này vẫn có thể bị xử phạt hành chính. Cụ thể, Căn cứ quy định tại Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP thì hành vi quấy rối tình dục bị xử lý như sau:
Đối với các hành vi khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm, lăng mạ, hoặc bôi nhọ danh dự và nhân phẩm của người khác, sẽ bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng, trừ các trường hợp sau:
+ Khi có lời nói hoặc hành động đe dọa, lăng mạ, xúc phạm danh dự và nhân phẩm của người thi hành công vụ.
+ Hành vi xúc phạm danh dự và nhân phẩm của thành viên trong gia đình theo quy định tại Điều 54 của Nghị định 144/2021/NĐ-CP.
Đối với các hành vi sàm sỡ, quấy rối tình dục, hoặc khiêu dâm và kích dục ở nơi công cộng, mức phạt tiền sẽ từ 5.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng.
Ngoài ra, đối với hành vi quấy rối tình dục còn phải chịu biện pháp khắc phục hậu quả là buộc phải xin lỗi công khai, trừ trường hợp nạn nhân có đơn không yêu cầu.
Như vậy, tùy theo mức độ của hành vi quấy rối tình dục, mức phạt vi phạm hành chính sẽ dao động từ 2.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng và kèm theo biện pháp khắc phục hậu quả bắt buộc.
Mặc dù mức phạt hành chính này có thể không đủ mạnh để chấm dứt hoàn toàn hành vi quấy rối tình dục, nhưng nó đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cá nhân trong việc tôn trọng quyền lợi và nhân phẩm của người khác. Việc áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính cũng thể hiện sự nghiêm túc của pháp luật trong việc bảo vệ quyền lợi của công dân, đặc biệt là trong môi trường làm việc và các không gian công cộng.
1.2. Hành vi “quấy rối tình dục” tại môi trường làm việc:
Trong quá trình làm việc, nếu người lao động bị “quấy rối tình dục”, họ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 35 Bộ Luật Lao động 2019. Cụ thể, Điều 35 quy định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động như sau:
Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động:
- Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn.
- Ít nhất 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng.
- Ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng.
- Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù, thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần báo trước trong các trường hợp sau:
- Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ Luật Lao động 2019.
- Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Lao động 2019.
- Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập, hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động.
- Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Bộ luật Lao động 2019, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.
- Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 97 của Bộ luật Lao động 2019.
- Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật Lao động 2019, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
- Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc.
Như vậy, trong trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc do bị quấy rối tình dục, người lao động hoàn toàn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần báo trước. Điều này giúp bảo vệ quyền lợi của người lao động, đảm bảo rằng người lao động có thể tránh tiếp xúc với môi trường làm việc không an toàn và không lành mạnh một cách hợp pháp.
Người lao động cần lưu ý rằng việc chấm dứt hợp đồng lao động theo đúng quy định pháp luật sẽ giúp bảo vệ quyền lợi của mình và tránh những rắc rối pháp lý sau này.
2. Có thể sa thải người lao động có hành vi quấy rối tình dục không?
Căn cứ theo Điều 125 của Bộ luật Lao động 2019, quy định về việc áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải như sau: Hình thức xử lý kỷ luật sa thải sẽ được người sử dụng lao động áp dụng trong các trường hợp sau:
- Khi người lao động có hành vi tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ hoặc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động.
- Khi người lao động có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản hoặc lợi ích của người sử dụng lao động.
- Khi người lao động có hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc, được quy định rõ ràng trong nội quy lao động.
Như vậy, theo quy định này, người sử dụng lao động hoàn toàn có quyền áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải đối với người lao động nếu họ có hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc, khi hành vi này đã được quy định trong nội quy lao động. Quy định này nhằm bảo vệ môi trường làm việc an toàn và lành mạnh, đồng thời đảm bảo quyền lợi và danh dự, nhân phẩm của người sử dụng lao động không bị xâm phạm.
3. Hành vi quấy rối tình dục có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Căn cứ vào Điều 155 của Văn bản hợp nhất Bộ luật Hình sự năm 2017, việc xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác được quy định như sau:
Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, có thể bị áp dụng một trong các hình phạt sau:
+ Phạt cảnh cáo.
+ Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.
+ Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
Ngoài ra, các trường hợp sau đây có thể bị áp dụng hình phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
+ Phạm tội hai lần trở lên.
+ Phạm tội đối với người đang thi hành công vụ.
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân, tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
+ Phạm tội với từ hai người trở lên.
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn.
+ Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội.
+ Phạm tội đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình.
- Trường hợp phạm tội gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân, tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên hoặc làm nạn nhân tự sát, có thể bị áp dụng hình phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
- Ngoài các hình phạt trên, người phạm tội cũng có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Do đó, hành vi quấy rối tình dục bằng lời nói, cử chỉ có thể dẫn đến hình phạt hình sự nếu hành vi này gây xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác. Tuy nhiên, để cấu thành tội làm nhục người khác, cần phải có bằng chứng cho thấy nạn nhân cảm thấy vô cùng nhục nhã, tủi hổ, ê chề. Nếu có bằng chứng này, người bị quấy rối có thể khởi kiện, tố giác để yêu cầu cơ quan chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp bị quấy rối tình dục.
THAM KHẢO THÊM: