Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc là một trong 6 cơ quan chính của Liên Hiệp Quốc. Được thành lập bởi các quốc gia thành viên, bên cạnh đó Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc còn trao quyền giới hạn cho một quốc gia, một thực thể hay một tổ chức quốc tế tham gia với vai trò quan sát viên Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc.
Mục lục bài viết
1. Quan sát viên là gì?
Quan sát viên là Người đại diện của một nước hoặc tổ chức quốc tế được cử đến tham gia ở mức độ hạn chế vào các hoạt động của một hội nghị hay một tổ chức quốc tế mà nước phái người đại diện không phải là thành viên.
Quan sát viên tiếng Anh là: “Observer”.
2. Quan sát viên Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc là gì?
Ngoài 193 quốc gia thành viên, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc có thể cấp quy chế quan sát viên cho 1 tổ chức quốc tế, thực thể hoặc nhà nước phi thành viên, thực thể được tham gia các công việc của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc, nhưng rất hạn chế. Đại Hội đồng có thể quyết định giới hạn đặc quyền cho các thực thể quan sát viên, chẳng hạn như quyền được phát biểu tại các cuộc họp Đại Hội đồng, bỏ phiếu về các vấn đề theo thủ tục, đóng vai trò như ký vào giấy tờ chấp thuận, và ký các nghị quyết, nhưng không được đưa ra nghị quyết quyết định và biểu quyết các nghị quyết các vấn đề quan trọng của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc.
Tình trạng Quan sát viên được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc công nhận theo nghị quyết của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc. Tình trạng thường trực sẽ do Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc quyết định theo thực tế, không có điều khoản quy định trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Tình trạng được công nhận quan sát viên phi thành viên. Quốc gia phi thành viên được tham gia các tổ chức của Liên Hiệp Quốc, có thể đăng ký trạng thái thường trực.
Quan sát viên Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc tiếng Anh là: “Observer of United Nations General Assembly”.
3. Thực thể quan sát viên phi thành viên:
Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc có thể mời các thực thể không phải thành viên tham gia vào hoạt động của Liên Hiệp Quốc mà không có tư cách thành viên chính thức, và đã làm như vậy trong nhiều dịp. Những thực thể tham gia như vậy được mô tả là quan sát viên, một số trong số đó có thể được phân loại là các nhà nước quan sát viên. Hầu hết các quốc gia không phải là thành viên của nhà quan sát đều chấp nhận tình trạng quan sát viên tại thời điểm họ nộp đơn xin gia nhập nhưng không thể đạt được điều này, do (hoặc thực tế) sự phủ quyết của một hoặc nhiều thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Việc cấp tư cách quan sát viên thực hiện bởi Đại Hội đồng và không thuộc diện phủ quyết của Hội đồng Bảo an.
Trong một số trường hợp 1 quốc gia có thể chọn trở thành 1 quan sát viên chứ không phải là thành viên chính thức. Ví dụ, để duy trì tính trung lập của mình trong khi tham gia vào công việc, Thụy Sĩ đã chọn để duy trì quan sát viên không phải là thành viên thường trực từ năm 1948 cho đến khi trở thành thành viên vào năm 2002 mặc dù là nơi đặt trụ sở châu Âu và của một số cơ quan Liên Hiệp Quốc. Tòa Thánh đã không muốn gia nhập Liên Hiệp Quốc như 1 thành viên vì “Việc tham gia vào tổ chức dường như không phù hợp với các điều khoản của Điều 24 của Hiệp ước Laterano, đặc biệt những vấn đề chính trị, quân sự và kinh tế”.Từ ngày 6/4/1964, Tòa Thánh đã chấp nhận tư cách quan sát viên thường trực tại Liên Hiệp Quốc, được xem như là 1 giải pháp ngoại giao, cho phép Vatican tham gia vào các hoạt động của Liên Hiệp Quốc.
Quốc gia phi thành viên
Vào năm 2015, có 2 quốc gia quan sát viên không thường trú ở Liên Hiệp Quốc: Tòa Thánh Vatican và Palestine. Toà Thánh Vatican đã trở thành quan sát viên không phải thành viên vào năm 1964 và Palestine đã được chỉ định vào năm 2012, sau khi nộp đơn xin gia nhập thành viên vào năm 2011mà không được sự chấp thuận của Hội đồng Bảo an. Cả hai đều được mô tả là “Các quốc gia phi thành viên đã nhận được lời mời thường trực tham gia với tư cách là quan sát viên trong các phiên họp và công việc của Đại Hội đồng và duy trì các phái quan sát viên thường trực tại trụ sở chính”. Vị thế của Tòa Thánh Vatican là 1 quan sát viên thường trực không phải là thành viên của Liên Hiệp Quốc đã bị đặt câu hỏi vì không có thuộc tính của 1 quốc gia.
Sự thay đổi tình trạng quan sát viên Palestine năm 2012 từ “thực thể quan sát phi thành viên” thành “nhà nước quan sát viên phi thành viên” được coi là “nâng cấp” vị thế của họ. Nhiều người gọi đây là sự thay đổi “tượng trưng, nhưng nó được coi là đòn bẩy mới cho người Palestine khi họ làm việc với Israel. Kết quả là, trong sự thay đổi tình trạng, Ban Thư ký Liên Hiệp Quốc thừa nhận quyền Palestine trở thành một bên của các hiệp ước mà Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc là người lưu chiểu.
Các ghế ngồi tại Đại Hội đồng được sắp xếp với các quốc gia quan sát viên phi thành viên ngồi ngay sau các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc và trước các quan sát viên khác. Vào ngày 10/9/2015, Đại Hội đồng đã quyết định phê chuẩn việc nâng cao cờ của các quốc gia quan sát viên phi thành viên của Liên Hiệp Quốc cùng với 193 nước thành viên của Liên Hiệp Quốc.
Danh sách các quốc gia quan sát viên trước đây
Quốc gia | Quan sát viên | Thành viên chính thức | Thời gian |
---|---|---|---|
Thụy Sĩ | 1946 | 2002 | 56 năm |
Hàn Quốc | 1949 | 1991 | 42 năm |
Áo | 1952 | 1955 | 3 năm |
Cộng hòa Liên bang Đức | 1952 | 1973 | 21 năm |
Italy | 1952 | 1955 | 3 năm |
Nhật Bản | 1952 | 1956 | 4 năm |
Phần Lan | 1952 | 1955 | 3 năm |
Việt Nam Cộng hòa | 1952 | — | — (quan sát 24 năm) |
Tây Ban Nha | 1955 | 1955 | 0 năm |
Monaco | 1956 | 1993 | 37 năm |
Kuwait | 1962 | 1963 | 1 năm |
Cộng hòa Dân chủ Đức | 1972 | 1973 | 1 năm |
Bangladesh | 1973 | 1974 | 1 năm |
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên | 1973 | 1991 | 18 năm |
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa | 1975 | — | — (quan sát 1 năm) |
Việt Nam | 1976 | 1977 | 1 năm |
4. Sơ lược về Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc:
Kỳ họp thường niên của Đại Hội đồng thường bắt đầu vào ngày thứ ba của tháng 9 và kết thúc vào giữa tháng 12 với chức danh Chủ tịch Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc được bầu vào lúc khởi đầu của mỗi kỳ họp. Kỳ họp đầu tiên được triệu tập ngày 10 tháng 1 năm 1946 tại Westminster Central Hall tại Luân Đôn với các đại biểu đến từ 51 quốc gia.
Đại Hội đồng biểu quyết bằng cách bỏ phiếu trong các vấn đề quan trọng – đề xuất hòa bình và an ninh; tuyển chọn thành viên cho các cơ quan; thu nhận, đình chỉ và trục xuất thành viên và các vấn đề ngân sách – cần được thông qua bởi đa số 2/3 số đại biểu có mặt và bỏ phiếu. Các vấn đề khác được quyết định bởi đa số quá bán. Mỗi quốc gia thành viên chỉ có một phiếu. Ngoại trừ việc thông qua các vấn đề về ngân sách bao gồm việc chấp nhận một thang bậc thẩm định, nghị quyết của Đại hội đồng không có giá trị ràng buộc đối với thành viên. Đại hội đồng có thể đề xuất về các sự việc trong khuôn khổ của Liên Hiệp Quốc, ngoại trừ các vấn đề liên quan đến hòa bình và an ninh thuộc thẩm quyền xem xét của Hội đồng Bảo an. Trên lý thuyết, quy chế 1 quốc gia, 1 lá phiếu cho phép các nước nhỏ với dân số tổng cộng chiếm chỉ 8% dân số thế giới có khả năng thông qua nghị quyết với đa số 2/3 trên tổng số phiếu.
Suốt thập niên 1980, Đại Hội đồng trở thành diễn đàn cho “đối thoại Bắc-Nam” – thảo luận về các vấn đề nảy sinh giữa các nước đã công nghiệp hóa và các nước đang phát triển. Những vấn đề này được đưa lên hàng đầu vì cớ sự phát triển thần kỳ và vì có diện mạo đang thay đổi của thành phần thành viên Liên Hiệp Quốc. Năm 1945, Liên Hiệp Quốc có 51 thành viên, nay con số này là 193, với hơn 2 phần 3 là các quốc gia đang phát triển. Chiếm phần đa số, các nước đang phát triển có khả năng ấn định nghị trình của Đại hội đồng (thông qua phương pháp phối hợp các nhóm quốc gia như G7), chiều hướng các cuộc tranh luận và thực chất của các quyết định. Đối với nhiều quốc gia đang phát triển, Liên Hiệp Quốc là nguồn cung ứng cho họ ảnh hưởng ngoại giao và diễn đàn chính cho những sáng kiến ngoại giao.
5. Hiến chương Liên Hiệp Quốc:
Hiến chương ở một góc độ nào đó có thể xem là điều ước quốc tế. Quy định việc thành lập Liên hợp quốc, tuyên bố mục đích, tôn chỉ, xác lập cơ cấu tổ chức và các nguyên tắc hoạt động của Liên biệt về hình thức so với các luật cơ bản, có cùng cấp độ hiệu lực pháp lý với các đạo luật và có thể bị sửa đổi bởi các đạo luật thường.
Hiến chương Liên Hiệp Quốc là hiệp ước nền tảng của tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh này, có vai trò như một bản hiến pháp đối với một quốc gia. Hiến chương quy định những nội dung bao quát, cơ bản nhất đối với một tổ chức như nguyên tắc hoạt động, cơ cấu tổ chức, quy chế thành viên… Tất cả các thành viên của Liên Hiệp Quốc đều bị ràng buộc bởi các điều khoản của Hiến chương. Theo đó, Hiến chương quy định rằng nghĩa vụ đối với Liên Hiệp Quốc cao hơn tất cả các nghĩa vụ trong các hiệp ước khác.
Hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đã phê chuẩn Hiến chương. Tuy nhiên, một ngoại lệ đáng chú ý là Tòa Thánh Vatican; với tư cách là quan sát viên thường trực nên Vatican không phải ký đầy đủ tất cả các điều khoản của Hiến chương.
Mục đích của Hiến chương Liên Hiệp Quốc
– Duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, và để đạt được mục đích đó, thi hành những biện pháp tập thể có hiệu quả để phòng ngừa và loại trừ các mối đe dọa hòa bình, cấm mọi hành vi xâm lược và phá hoại hòa bình khác; điều chỉnh hoặc giải quyết các vụ tranh chấp hoặc những tình thế có tính chất quốc tế có thể đưa đến sự phá hoại hòa bình, bằng phương pháp hòa bình theo đúng nguyên tắc của công lý và pháp luật quốc tế.
– Phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và tự quyết của các dân tộc và áp dụng những biện pháp phù hợp khác để củng cố hòa bình thế giới.
– Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo và khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo.
– Trở thành trung tâm phối hợp mọi hành động của các dân tộc, nhằm đạt được những mục đích chung nói trên.
Nguyên tắc hoạt động của Hiến chương Liên Hiệp Quốc
– Liên Hiệp Quốc được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của tất cả các quốc gia thành viên.
– Tất cả các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc đều phải làm tròn những nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo Hiến chương này để được đảm bảo hưởng toàn bộ các quyền và ưu đãi do tư cách thành viên mà có.
– Tất cả các thành viên của Liên Hiệp Quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hòa bình, sao cho không tổn hại đến hòa bình, an ninh quốc tế và công lý.
– Tất cả các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc từ bỏ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào cũng như bằng cách khác trái với những mục đích của Liên hợp quốc.
– Tất cả các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc giúp đỡ đầy đủ cho Liên Hiệp Quốc trong mọi hành động mà nó áp dụng theo đúng Hiến chương này và tránh giúp đỡ bất cứ quốc gia nào bị Liên Hiệp Quốc áp dụng các hành động phòng ngừa hoặc cưỡng chế.
– Liên Hiệp Quốc làm thế nào để các quốc gia không phải là thành viên Liên Hiệp Quốc cũng hành động theo nguyên tắc này, nếu như điều đó cần thiết để duy trì hòa bình và an ninh thế giới.
– Hiến chương này hoàn toàn không cho phép Liên Hiệp Quốc được can thiệp vào những công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất cứ quốc gia nào, và không đòi hỏi các thành viên của Liên Hiệp Quốc phải đưa những công việc loại này ra giải quyết theo quy định của Hiến chương; tuy nhiên, nguyên tắc này không liên quan đến việc thi hành những biện pháp cưỡng chế nói ở chương VII.
Nội dung chính của Hiến chương Liên Hiệp Quốc
Hiến chương bao gồm Lời nói đầu và 111 Điều được nhóm lại trong 19 Chương.
– Lời nói đầu bao gồm hai phần chính. Phần đầu tiên là lời kêu gọi chung cho việc duy trì hòa bình, an ninh quốc tế và tôn trọng nhân quyền. Phần thứ hai của lời nói đầu là một bản tuyên bố mà các chính phủ của các dân tộc thành viên Liên Hiệp Quốc đồng ý với Hiến chương.
– Chương I nêu bốn mục đích của Liên Hiệp Quốc, bao gồm các điều khoản quan trọng về duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
– Chương II quy định tiêu chuẩn của các thành viên Liên Hiệp Quốc.
– Chương III đến Chương XV – phần chính của Hiến chương – miêu tả các cơ quan, các tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc và quyền hạn của các cơ quan, tổ chức này.
– Chương XVI và Chương XVII quy định các dàn xếp giúp đưa Liên Hiệp Quốc trở nên phù hợp với khuôn khổ có sẵn của luật pháp quốc tế.
– Chương XVIII và Chương XIX quy định việc sửa đổi và phê chuẩn Hiến chương.
– Riêng các chương sau đây đề cập đến việc thực thi quyền hạn của các cơ quan thuộc Liên Hiệp Quốc:
– Chương VI quy định quyền hạn của Hội đồng Bảo an về điều tra và hòa giải các tranh chấp.
– Chương VII quy định quyền hạn của Hội đồng Bảo an về trừng phạt kinh tế, ngoại giao và quân sự, cũng như việc sử dụng lực lượng quân sự để giải quyết các tranh chấp.
– Chương VIII quy định về các dàn xếp ở cấp độ khu vực nhằm duy trì hòa bình và an ninh ở những khu vực đó.
– Chương IX và Chương X quy định quyền hạn của Liên Hiệp Quốc về hợp tác kinh tế – xã hội, và quyền hạn của Hội đồng Kinh tế – Xã hội chịu trách nhiệm giám sát những quyền hạn này.
– Chương XII và Chương XIII quy định quyền hạn của Hội đồng Ủy trị chịu trách nhiệm giám sát quá trình phi thực dân hóa (việc trao quyền độc lập cho các thuộc địa).
– Chương XIV và Chương XV quy định quyền hạn riêng của