Quan Tư Hoàng là một vị thánh nổi tiếng trong hệ thống quan tứ phủ, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu bài viết dưới đây để có thể hiểu rõ hơn về nguồn gốc của Quan Tư Hoàng
Mục lục bài viết
1. Sự tích Quan Hoàng Tư:
Quan Hoàng Tư là con trai của Vua Cha Bát Hải Động Đình, ông được Vua Cha giao cho việc quản lý thủy cung và giữ đền rồng. Ông Hoàng được cử làm tướng quân thay Nguyễn Hữu Cầu. Ông sinh ra ở thôn Lôi Động, xã Tân An, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, nhưng hiếu học và hiếu học. Ông là người có tài bơi lội nên được gọi là Quận He, tên các loài cá ở Biển Đông.
Thuở ấy, thời vua Lê, chúa Trịnh, nhân dân để tang. Bất mãn, ông theo Nguyễn Cừ dấy binh khởi nghĩa, nhưng được Cừ yêu gả con gái cho. Sau này, khi Nguyễn Cừ bị bắt, Nguyễn Hữu Cầu đích thân dẫn ba đạo quân, lập mưu cướp của quan chia cho dân nghèo nên rất được lòng dân chúng.
Cuối cùng, triều đình phải cử Phạm Đình Trọng, bạn thuở nhỏ và cũng là đối thủ của ông đi chinh phạt. Vì quá hiểu Cầu nên Trọng đã đánh bại Cầu. Đêm đó quân của Nguyễn Hữu Cầu bị bao vây. Cầu lặn xuống sông, lẻn vào thuyền của Trọng, để lại một bức thư, trong đó viết: “Ta có thể lấy đầu ngươi, nhưng ta nghĩ ta sẽ tha cho ngươi. Đổi lấy ngôi nhà của ngươi, mở đường cho quân ta trốn thoát.” Sáng ra, Trọng đọc thư, hốt hoảng định mở đường cho quân Cầu, nhưng bị phục kích bỏ chạy, bắt sống Hữu Cầu giao nộp cho triều đình. Năm 1751 Nguyễn Hữu Cầu bị kết án tử hình. Lúc này, vợ anh là chị Nguyễn Thị Quỳnh đi cạnh rút dao đâm vào cổ anh.
Cuộc khởi nghĩa bị dập tắt, xác ông dạt vào bãi biển Trà Cổ. Nhân dân tôn ông là Thần hộ mệnh vùng Đông Bắc. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng hình ảnh một vị tướng oai phong, chính trực hết lòng vì cuộc sống của dân nghèo không bao giờ phai mờ. Để tưởng nhớ và biết ơn ông, nhân dân nhiều nơi đã lập đền thờ ông.
2. Đền thờ Quan Hoàng Tư:
Đền thờ chính của ông ở thôn Cựu Điện, Nhân Hòa, Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ngoài ra còn một số nơi thờ tướng quân Nguyễn Hữu Cầu như:
Đền Ngọc Xuyên – Đồ Sơn: Ông có hiệu là Bát Bộ Tôn Thần.
Đền Vàng Ngang – Đồ Sơn: Tại đây ông được tôn là Đông đạo Thống quốc tướng quân Nguyễn Hữu Cầu – Đây là tên tự của tướng quân Nguyễn Hữu Cầu.
Đình Trà Cổ, Móng Cái, Quảng Ninh thờ thần làng và Quận He (tên gọi khác của tướng quân).
Ở quê hương, Phạm Đình Trọng vừa là bạn học, vừa là hai tướng đối đầu nhau trên chiến trường với đền thờ Phạm Đình Trọng và đền thờ Nguyễn Hữu Cầu.
Tại quê ông, làng Đồng Nội, Thanh Hà, Hải Dương thờ mộ cha và đình làng thờ ba vị Thành Hoàng, trong đó có Quận He.
3. Hầu giá Quan Tư Hoàng:
Quan Hoàng Tư khi ngồi đồng mặc áo vàng, chít khăn, có khi mặc áo thụng, đeo nỏ, cầm gươm nhưng Hoàng ít khi ra đồng. Chỉ những người có trí thông minh hoặc khả năng của sáu sứ giả mới phục vụ Ngài. Lễ đăng quang xong, Ngài ngồi xuống, dâng chén, nghe tụng rồi ngồi giá.
4. Tứ Phủ Quan Hoàng:
Quan Tư Hoàng là một trong những vị thần nằm trong Tứ Phủ Quan Hoàng, ngoài ra hệ thống Tứ Phủ Quan Hoàng còn được biết đến với các vị thần sau:
4.1. Thánh Ông Hoàng Cả:
Ông Hoàng Cả hay còn gọi là ông Hoàng Quận là con trai Vua Cha Bát Hải Động Đình. Ông chịu trách nhiệm giữ sổ sách trên trời.
Ông thường dạo chơi khắp chốn tiên cảnh “Khi chơi Thiếu Lĩnh, khi chơi Non Bồng”. Khi đi trên thượng giới, Ngài thường cưỡi Xích Long, khi đi trên mặt nước, Ngài cưỡi trong lốt Tam Đầu Cửu Vĩ. Ông ấy thường ưu ái những người kinh doanh hoặc học giả.
Ông Hoàng Cả không giáng trần nên không có sử liệu nào ghi chép về sự hóa thân của ông và hầu như không có chánh điện. Tương truyền ở Lý Nhân, Nam Hà cũng có đền thờ ông nhưng đã bị phá bỏ. Hiện ông được thờ bằng một ban riêng gọi là Quan Hoàng Quận tại đền Trung Suối Mỡ (Bắc Giang).
4.2. Thánh Ông Hoàng Đôi:
Về tứ phủ, tương truyền Quan Hoàng Đôi là con trai Bát Hải Vương giáng trần. Hóa thân của ông là tướng quân Nguyễn Hoàng. Ông theo lệnh cha, sinh ra trong thế gian, trở thành con thứ của họ Nguyễn, sau trở thành danh tướng có công giúp nhà Lê trong công cuộc “phù Lê dẹp Mạc”. Ông từng đem quân truy đuổi họ Mạc đến tận Cao Bằng. Ông được vua Lê phong nhiều công trạng. Nơi ông đóng quân là đất Tống Sơn, Triệu Tường, Thanh Hóa.
Chính điện của Hoàng Đôi được lập tại nơi ngày xưa ông từng dẫn quân đóng quân gọi là Miếu Triệu Tường (còn gọi là Miếu Quan Triều) thuộc đất Tòng Sơn, núi Triệu Tường, tỉnh Thanh Hóa. Ngoài ra, ở Chèm, Hà Nội còn có một ngôi đền thờ ông gọi là đền Quan Triều.
Thân thế Quan Hoàng Đôi Triệu Tường:
Theo các tài liệu cổ, Quan Hoàng Triều chính là Nguyễn Hoàng – thủy tổ của 9 Chúa Nguyễn và 13 vị vua nhà Nguyễn.
Nguyễn Hoàng quê ở Gia Miêu, Hà Phong, Hà Trung, Thanh Hóa ngày nay. Ông sinh năm Ất Dậu 1525, là con thứ hai của quan khai quốc công thần nhà Lê là Nguyễn Kim.
Sau đó, cha và anh của Nguyễn Hoàng bị đầu độc chết. Nguyễn Hoàng phò vua Lê, tổng đốc Thuận Hóa. Từ đây, Nguyễn Hoàng và con cháu đã góp phần mở mang bờ cõi phía Nam từ Quảng Bình đến mũi Cà Mau và thống nhất các vùng đất Tuyên Quang, Hà Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng dưới sự cai trị của Chúa Bầu và Mạc Thành ở Việt Nam ngày nay.
Có thể nói, Quan Hoàng Đôi là một vị thần có thật trong lịch sử. Ông có công lớn trong việc mở mang bờ cõi, thống nhất đất nước. Tuy nhiên, việc mở rộng lãnh thổ, nhất là việc xâm lược, thôn tính các nước như Chămpa, nhất là Chân Lạp (Campuchia ngày nay) không được nhà nước ta coi trọng vì lý do nhạy cảm với quốc tế. Vì vậy, sử sách ít nhắc đến công lao to lớn này của Ngài.
Ông là một vị quan vô cùng linh thiêng, không thua kém gì Quan Hoàng Bảy hay Quan Hoàng Mười. Đặc biệt, đến chùa của ông để cầu danh, cầu tài, thi cử rất hiệu nghiệm. Đây là điều ít người biết.
Quan Hoàng Đôi có 2 đền thờ chính tại: Đền Quan Hoàng Triều ở Thanh Hóa (gắn với nơi ông sinh ra và nơi vua Lê ban đất), Đền Hoàng ở Chèm – Hà Nội (gắn với nơi ông đóng quân khi anh ấy đang làm nhiệm vụ). phía bắc để giúp nhà vua) Lê diệt nhà Mạc.
Ngoài ra, Ngài còn được thờ trong Tứ Phủ Thánh Hoàng ở một số chùa khác.
4.3. Quan Hoàng Bơ:
Hiện nay có 3 ngôi đền thờ ông: Đền Quan Hoàng Ba ở Hàn Sơn, Thanh Hóa; Đền Hùng Long ở Thái Bình; Đền Vạn Ngang ở Đồ Sơn. Truyện cổ tích Quan Hoàng Bơ cũng có nhiều dị bản.
+ Sự tích Quan Hoàng Bơ có liên quan đến đền Quan Hoàng Ba – Phong Mục.
Ông là con thứ ba của Tứ Phủ Ông Hoàng, con của Long Vương Bát Hải Động Đình. Ông Hoàng Bơ từng ngồi dưới tòa Thoại Cung, coi sóc các việc ở chùa Vàng Thủy Phủ. Đôi khi anh ta biến mất trong nước, để lộ chân dung của một hoàng tử với khuôn mặt không có khuôn mặt, cưỡi một con cá chép vàng. Có khi ông hiện ra, ngồi trên thuyền dạo chơi, uống rượu, ngâm thơ, ca hát, ngắm trăng, đánh cờ, hưởng thú vui của du khách. Có truyền thuyết kể rằng, Ông Bơ cũng là anh em thân thiết của Quan Lớn Đệ Tam, khi nhàn rỗi thường ngồi thuyền rồng dạo chơi khắp nơi, thấy dân còn khổ nên vua sai đi. Đi khắp thiên hạ loan tin, mở hội Phúc Duyên, đem phúc cho dân, giúp thương nhân làm ăn, học trò đỗ đạt.
+ Sự tích ông Hoàng Bơ Phủ liên quan đến đền Hưng Long – Thái Bình
Tương truyền rằng: Ở làng Kênh Xuyên xưa có vợ chồng ông Trần Thái Công và bà Đặng Thị hiền lành đức độ. Họ đã già nhưng không có con. Một đêm nọ, họ mơ thấy một vị thánh rất xinh đẹp và uy nghiêm mặc áo sơ mi trắng thắt lưng bằng ngọc lưu ly cõng một thanh niên tuấn tú, mạ vàng lên khỏi mặt nước. Thánh thú nhận:
Ta là con gái thủy tổ của Long Vương, Thủy Tinh Ngọc Dung Chi Lan Long Công Chúa thấy vợ chồng ngươi siêng làm việc thiện, lo hương khói nên Hoàng Tử Long Cung đầu thai làm con để hầu hạ. Điều này sẽ cứu nhiều người tốt.
Sau đó, cô mang thai và sinh hạ một bé trai kháu khỉnh kháu khỉnh. Cậu bé sau này lớn lên chỉ quan tâm đến đạo Phật và không quan tâm đến hôn nhân. Năm hai mươi hai tuổi, Minh Đức thành lập Phật học đường hàng ngày. Sau khi Thái Ông, Thái Bà về cõi tiên, Minh Đức cũng đi đâu không rõ. Thảo Am trở nên lạnh lẽo, bỗng một đêm trong làng xuất hiện một vị hoàng tử khôi ngô tuấn tú, trên lưng đội mũ miện vàng, áo trắng, đeo gươm bạc và đeo rắn trắng. trên biển nói:
Tôi là long đế, sinh ra để phù hộ cho Thái Ông, Thái Bà nay đã hết hạn, tôi xin trở về thủy cung. Dân làng bấy giờ vẫn tôn thờ Thánh Mẫu Thủy Tinh một cách trang nghiêm như xưa, hễ có hoạn nạn là bà đến cứu giúp. Tương lai cho đất mở rộng mãi là tiêu cực.
Sáng hôm sau, mọi người tỉnh dậy, cùng chiêm bao bảo nhau, sợ Thảo Am rất linh thiêng, nên lập ngôi có ngai Minh Đức Hoàng Bơ Thoại Đại Vương để thờ, ngày ngày thắp hương. và bóng tối. Từ đó, Thảo Am trở thành chùa và ông trở thành Thành Hoàng của làng.
Đức Thành Hoàng về sau được nhà Nguyễn sắc phong với nhiều mỹ từ “Đông Hải Minh Đức Đại Vương vô thượng.