Trong tố tụng dân sự, chứng minh là biện pháp duy nhất để xác định tính có thực của những sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự. Vậy phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự là gì?
Mục lục bài viết
1. Phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự là gì?
Chứng minh trong tố tụng dân sự được xem là hoạt động của các chủ thể trong tố tụng, bao gồm các hoạt động tố tụng như: cung cấp, thu thập, nghiên cứu đánh giá chứng cứ,…
Phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự được hiểu là những công cụ cụ thể được quy định bởi pháp luật, có thể kể đến như vật chứng, lời khai của bên đương sự, lời khai của nhân chứng, kết luận của các chuyên gia kiểm định,… nhằm mục đích để làm rõ các tình tiết và sự kiện trong vụ việc dân sự. Cụ thể:
– Lời khai gồm lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng.
Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là một trong những chứng cứ khi những lời khai đó được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định; lời khai tại phiên tòa.
– Kết luận giám định:
Để được coi là chứng cứ thì kết luận giám định nó phải đáp ứng điều kiện được tiến hành đúng thủ tục và quy trình.
– Vật chứng: được hiểu là những hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
– Các tài liệu đọc được nội dung nếu là bản chính, hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận sẽ được coi là chứng cứ.
– Các tài liệu nghe được, nhìn được nếu như được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó sẽ được coi là chứng cứ.
– Các thông điệp dữ liệu điện tử theo quy định sẽ được thể hiện dưới các hình thức như trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác.
– Kết quả định giá tài sản hay kết quả thẩm định giá tài sản nếu như tiến hành đúng theo quy định của pháp luật sẽ được coi là chứng cứ.
– Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục sẽ được coi là chứng cứ chứng minh.
– Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ khi lập theo đúng trình tự, thủ tục sẽ được coi là bằng chứng.
– Các văn bản công chứng, chứng thực được thực hiện đúng theo quy trình, thủ tục luật quy định thì sẽ được coi là chứng cứ.
– Các nguồn chứng cứ khác được pháp luật quy định.
2. Quyền và nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự:
Chứng minh là hoạt động chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án nên có nội hàm rất rộng. Bản chất của hoạt động chứng minh của các chủ thể trong tố tụng dân sự chỉ thể hiện ở chỗ xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự mà còn thể hiện ở chỗ phải làm cho mọi người thấy rõ nó là có thật, là đúng với thực tế.
Nhưng để thực hiện được mục đích, nhiệm vụ của chứng minh các chủ thể chứng minh bao giờ cũng phải chỉ ra được tất cả các căn cứ pháp lý và thực tiễn liên quan đến vụ việc dân sự.
Theo quy định, các chủ thể thực hiện chứng minh trong hoạt động tố tụng dân sự bao gồm:
– Đương sự.
– Người đại diện của đương sự.
– Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
– Tòa án nhân dân.
Theo đó, các bên đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập và giao nộp chứng cứ cho Tòa án để chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng có quyền và nghĩa vụ thu thập và cung cấp chứng cứ, chứng minh như bên đương sự. Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ bên đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ theo quy định.
Như vậy, việc thu thập, giao nộp chứng cứ sẽ là quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự cũng như là của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm mục đích xác định sự thật khách quan, giải quyết vấn đề một cách đúng đắn và chính xác.
Khi đưa ra yêu cầu giải quyết trong đơn, nguyên đơn phải có được những chứng cứ để chứng minh yêu cầu đó của mình đối với bị đơn. Thực tế, bị đơn được cho là không có bất kỳ trách nhiệm nào đối với nguyên đơn cho đến khi trách nhiệm của bị đơn được chứng minh. Khi có đơn khởi kiện đưa ra các yêu cầu, nếu như nguyên đơn không giao nộp đầy đủ chứng cứ chứng minh đối với những yêu cầu mình đưa ra thì sẽ phải chịu hậu quả về việc đó, có thể là Tòa sẽ từ chối không thụ lý đơn do không có căn cứ, bằng chứng chứng minh.
3. Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh:
Căn cứ Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định có những tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh trong hoạt động tố tụng dân sự bao gồm:
– Những tình tiết, sự kiện được xác định là rõ ràng, mọi người đều biết và được Tòa án công nhận thì sẽ không cần chứng minh.
– Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật.
– Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp.
Tuy nhiên, thực tế trong quá trình giải quyết, Tòa án nếu như có sự nghi ngờ tính khách quan của những tình tiết, sự kiện này hoặc tính khách quan của văn bản công chứng, chứng thực thì khi đó, Tòa án có quyền được yêu cầu các đương sự hoặc cơ quan công chứng xuất trình bản gốc để đối chiếu.
– Những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn một bên đương sự đưa ra và được bên còn lại thừa nhận hoặc không có sự phản đối thì không cần phải chứng minh.
– Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu không vượt quá phạm vi đại diện.
4. Quy định về việc xác minh, thu thập chứng cứ:
Thứ nhất, đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình thực hiện thủ tục thu thập chứng cứ theo các hình thức, biện pháp sau:
– Thu thập vật chứng.
– Thu thập tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; thông điệp dữ liệu điện tử.
– Xác định người làm chứng và xin người làm chứng xác nhận.
– Yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực chữ ký của người làm chứng.
– Đối với những tài liệu có liên quan đến việc giải quyết vụ việc mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý thì được quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đó cho sao chép hoặc cung cấp.
– Trường hợp nếu đương sự không thể thu thập tài liệu, chứng cứ thì được quyền yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ.
– Yêu cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định, định giá tài sản.
– Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện công việc khác theo quy định.
Thứ hai, Tòa án được quyền thu thập tài liệu, chứng cứ theo một số biện pháp sau:
– Trưng cầu giám định.
– Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng.
– Tiến hành đối chất các đương sự với nhau hoặc đối chất giữa đương sự với người làm chứng.
– Định giá tài sản.
– Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ.
– Xem xét, thẩm định tại chỗ.
– Đối với những tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự thì được quyền yêu cầu các cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp.
– Thực hiện xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú.
– Thực hiện các biện pháp khác theo quy định của pháp luật.
Lưu ý: đối với những thủ tục trưng cầu giám định; định giá tài sản; xem xét, thẩm định tại chỗ; ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự khi thực hiện Tòa án phải ra quyết định và nêu rõ lý do.
Ngoài ra, Viện kiểm sát cũng có trách nhiệm thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG BÀI VIẾT:
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.