Trị giá hải quan của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có vai trò quan trọng trong quản lý hoạt động thương mại quốc tế. Xác định trị giá hải quan phù hợp sẽ đảm bảo công bằng cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Cùng bài viết tìm hiểu phương pháp trị giá tính toán trong nhập khẩu.
Mục lục bài viết
1. Khái niệm phương pháp trị giá tính toán trong nhập khẩu?
Trị giá hải quan của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu luôn luôn là mối quan tâm của nhà nước, của doanh nghiệp. Việc xác định trị giá hải quan không chỉ liên quan tới nguồn thu ngân sách nhà nước, tới các chính sách khuyến khích phát triển và bảo vệ sản xuất, mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động thương mại quốc tế. Khái niệm trị giá Hải quan đã được hình thành khi bắt đầu chuyển dần việc đánh thuế cụ thể theo lượng hàng hóa sang đánh thuế theo giá trị hàng hóa. Việc tính thuế dựa trên giá trị của hàng hóa ngày càng phát triển, do vậy việc xác định trị giá hàng hóa một cách tùy tiện không còn phù hợp nữa. Ở các khu vực lãnh thổ, các nước tìm cách xây dựng các cách tính toán giá trị của hàng hóa để tính thuế.
Trị giá hải quan phục vụ mục tiêu quản lý và xây dựng chính sách xuất nhập khẩu hàng hóa trong nền kinh tế: Trị giá hải quan của hàng hóa xuất nhập khẩu cho biết tổng giá trị hàng hóa đã được xuất khẩu hay nhập khẩu trong từng kỳ quản lý. Đây chính là số liệu quan trọng giúp xây dựng Bảng cân đối kim ngạch xuất nhập khẩu của nền kinh tế, từ đó, cơ quan quản lý có thể biết được trong kỳ đó, nền kinh tế có đạt được sự cân bằng về xuất nhập khẩu hay không, có hiện tượng nhập siêu hay xuất siêu không, để có chính sách quản lý và điều chỉnh các hoạt động nhập khẩu phù hợp.
Theo tinh thần tại Khoản 1, Điều 11
Phương pháp trị giá tính toán là phương pháp xác định trị giá hải quan của hàng hóa dựa trên các chi phí liên quan đến việc sản xuất và bán hàng để xuất khẩu đến nước nhập khẩu.
Trong quá trình áp dụng tuần tự về phương pháp trị giá hải quan, cũng có ngoại lệ, đó là phương pháp trị giá khấu trừ và trị giá tính toán có thể hoán đổi vị trí cho nhau. Sở dĩ có thể hoán đổi, bởi việc tính toán, xác định trị giá tính thuế theo hai phương pháp này hầu hết dựa vào các tài liệu, số liệu, bằng chứng của doanh nghiệp. Khi đó, chính doanh nghiệp là người biết rõ nhất có thể xác định trị giá theo phương pháp nào trong số hai phương pháp đó, để đề nghị cơ quan Hải quan áp dụng phương pháp thích hợp.
2. Nội dung về phương pháp trị giá tính toán trong nhập khẩu:
Phản ánh về nội dung phương pháp trị giá tính toán trong nhập khẩu, tác giả sử dụng quy định tại Điều 11
Thứ nhất, các yếu tố cấu thành trị giá tính toán và cách xác định trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu theo phương pháp trị giá tính toán:
– Chi phí trực tiếp để sản xuất ra hàng hóa nhập khẩu: Giá thành hoặc trị giá của nguyên vật liệu, chi phí của quá trình sản xuất hoặc quá trình gia công khác được sử dụng vào sản xuất hàng nhập khẩu. Chi phí này bao hàm cả các khoản chi phí sau:
+ Chi phí hoa hồng bán hàng, phí môi giới; Chi phí bao bì gắn liền với hàng hóa nhập khẩu; Chi phí đóng gói hàng hóa.
+ Trị giá của các khoản trợ giúp, ví dụ: Nguyên liệu, bộ phận cấu thành, phụ tùng và các sản phẩm tương tự hợp thành, được đưa vào hàng hóa nhập khẩu; Nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu tiêu hao trong quá trình sản xuất hàng hóa nhập khẩu; Công cụ, dụng cụ, khuôn rập, khuôn đúc, khuôn mẫu và các sản phẩm tương tự được sử dụng để sản xuất hàng hóa nhập khẩu;…
+ Chỉ tính vào trị giá hải quan trị giá của các khoản trợ giúp kể trên được thực hiện ở Việt Nam nếu người sản xuất chịu chi phí cho các sản phẩm trợ giúp đó.
– Chi phí chung và lợi nhuận phát sinh trong hoạt động bán hàng hóa cùng phẩm cấp hoặc cùng chủng loại với hàng hóa nhập khẩu đang xác định trị giá, được sản xuất ở nước xuất khẩu để bán hàng đến Việt Nam. Khoản lợi nhuận và chi phí chung phải được xem xét một cách tổng thể khi xác định trị giá tính toán.
Chi phí chung bao gồm tất cả các chi phí trực tiếp hay gián tiếp của quá trình sản xuất và bán để xuất khẩu hàng hóa, nhưng chưa được tính toán theo quy định nêu tại điểm a khoản này.
– Các chi phí vận tải, bảo hiểm và các chi phí có liên quan đến việc vận tải hàng hóa nhập khẩu.
Như vậy, cách xác định trị giá hải quan theo phương pháp tính toán được xác định trên cơ sở các khoản chi phí của người sản xuất để sản xuất và bán hàng xuất khẩu đến nước nhập khẩu. Toàn bộ quá trình xác định trị giá, tính toán trị giá hải quan phải được thực hiện trên cơ sở tuân thủ các chuẩn mực kế toán của nước sản xuất. Các thông tin này trước hết dựa vào khai báo của người nhập khẩu. Người nhập khẩu có trách nhiệm tìm kiếm và bảo đảm tính chính xác của các thông tin xuất trình phục vụ mục đích trị giá tính toán. Nhìn chung, các trị giá tính toán khá đa dạng, việc xác định chính xác các chi phí nêu trên là điều cực kỳ quan trọng, để đưa ra một kết quả cuối cùng về trị giá hải quan là hoàn toàn chính xác.
Thứ hai, căn cứ để xác định trị giá tính toán:
Khoản 3, Điều 11 ghi nhận căn cứ để xác định trị giá tính toán là “Là số liệu được ghi chép và phản ánh trên chứng từ, sổ sách kế toán của người sản xuất trừ khi các số liệu này không phù hợp các số liệu thu thập được tại Việt Nam. Số liệu này phải tương ứng với những số liệu thu được từ những hoạt động sản xuất, mua bán hàng hóa nhập khẩu cùng phẩm cấp hoặc cùng chủng loại do người sản xuất tại nước xuất khẩu sản xuất ra để xuất khẩu đến Việt Nam.” Đây cũng được coi là điều kiện áp dụng phương pháp trị giá tính toán, các căn cứ này phải được ghi chép và thể hiện một cách rõ ràng, chính xác, khách quan, đảm bảo được khả năng sử dụng để đưa ra kết quả đúng về trị giá hải quan.
Thứ ba, chứng từ, tài liệu để xác định trị giá hải quan theo phương pháp trị giá tính toán bao gồm:
– Bản giải trình của người sản xuất về các chi phí có xác nhận của người sản xuất về các chứng từ, số liệu kế toán phù hợp với bản giải trình này;
–
– Chứng từ về các chi phí.
3. Điều kiện áp dụng phương pháp trị giá tính toán:
Việc áp dụng phương pháp trị giá tính toán phải đảm bảo điều kiện: Người nhập khẩu phải có đầy đủ các thông tin về các yếu tố cấu thành trị giá tính toán. Số liệu về các khoản giá thành, chi phí trả được ghi rõ trên những chứng từ, tài liệu hay giấy tờ hợp pháp.
Các thông tin sử dụng để xác định trị giá tính toán phải là các thông tin đã có ở nước nhập khẩu. Các thông tin này trước hết dựa vào khai báo của người nhập khẩu. Người nhập khẩu có trách nhiệm tìm kiếm và bảo đảm tính chính xác của các thông tin xuất trình phục vụ mục đích xác định trị giá tính toán. Khai báo của người nhập khẩu sẽ được kiểm tra thông qua các biện pháp nghiệp vụ và hệ thống quản lý thông tin của cơ quan hải quan.
Trường hợp cơ quan hải quan không chấp nhập các thông tin do người nhập khẩu cung cấp thì có thể sử dụng các thông tin do hải quan thu thập qua nhiều kênh khác nhau. Nếu cơ quan Hải quan sử dụng các thông tin khác thì phải
Theo quy định của pháp luật, cơ quan hải quan có nhiều phương thức thu thập và tìm kiếm thông tin nhăm phục vụ việc xác định trị giá tính toán và kiểm tra khai báo của người nhập khẩu. Trường hợp cơ quan hải quan cần tìm kiếm thông tin thì chỉ có thể đề nghị người sản xuất hàng hóa nhập khẩu hoặc các cơ quan giúp đỡ thông qua sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền ở nước sản xuất.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết: Thông tư 39/2015/TT-BTC quy định về trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành.