Quy định pháp luật về quyền lợi phụ nữ mang thai trong giao kết lao động? Phụ nữ mang thai có được tăng ca, làm thêm giờ không?
Làm mẹ là một công việc mang ý nghĩa thiêng liêng và cao quý. Người phụ nữ khi mang thai và sinh con phải chịu đựng tới 57 đơn vị đau, nó tương đương với việc bị gãy 20 cái xương cùng 1 lúc- thật đau đớn và kinh khủng nhường nào. Vì vậy phụ nữ mang thai cần là đối tượng được quan tâm chăm sóc hơn bao giờ hết. Trên các phương tiện công cộng như xe bus hay tàu điện trên cao ở Việt Nam, ta có thể dễ dàng bắt gặp những đề nghị nhân văn như: Hãy nhường chỗ cho trẻ em, người già/ người khuyết tật và phụ nữ mang thai. Có thể thấy phụ nữ mang thai là một trong những đối tượng được ưu tiên. Và những ưu tiên này còn được quy định cụ thể trong luật định. Vậy phụ nữ trong thời kỳ mang thai có được tăng ca hay làm thêm giờ hay không? Bài viết dưới đây sẽ mang đến cho quý bạn đọc các thông tin hữu ích để trả lời cho câu hỏi đó.
Căn cứ pháp lý:
– Luật lao động năm 2019;
– Luật An toàn Vệ sinh, lao động năm 2015;
– Thông tư 10/2020/TT-BLĐTBHXH quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của bộ luật lao động về nội dung của hợp đồng lao động, hội đồng thương lượng tập thể và nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản, nuôi con;
– Nghị định 12/2022/ NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, BHXH, NLĐ Việt Nam ở nước ngoài theo hợp đồng;
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Mục lục bài viết
1. Quy định pháp luật về quyền lợi phụ nữ mang thai trong giao kết lao động:
Phụ nữ mang thai là đối tượng cần được nhà nước và xã hội quan tâm nhiều nhất bởi khi mang thai thì sức khỏe và tâm lý của người phụ nữ chịu nhiều tác động và dễ bị tổn thương hơn cả. Do đó, pháp luật đã quy định về việc bảo vệ người phụ nữ đang mang thai được hưởng chế độ thai sản như theo quy định căn cứ điều 137
– Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ mang thai làm việc ban đêm, làm thêm giờ và đi công tác xa trong trường hợp mang thai từ tháng thứ 07 hoặc từ tháng thứ 06 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và trường hợp đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ khi được người lao động đồng ý.
– Lao động nữ làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con khi mang thai và có thông báo cho người sử dụng lao động biết thì được người sử dụng lao động chuyển sang làm công việc nhẹ hơn, an toàn hơn hoặc giảm bớt 01 giờ làm việc hằng ngày mà không bị cắt giảm tiền lương và quyền, lợi ích cho đến hết thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
– Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Trường hợp hợp đồng lao động hết hạn trong thời gian lao động nữ mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì được ưu tiên giao kết
– Lao động nữ trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc. Thời gian nghỉ vẫn được hưởng đủ tiền lương theo hợp đồng lao động.
Như điều luật đã chỉ rõ, trong thời kỳ người phụ nữ mang thai sẽ được hưởng những đặc quyền riêng để đảm bảo sức khỏe và tinh thần của họ. Người lao động nữ và người sử dụng lao động cần nắm rõ để thực hiện đúng pháp luật. Ngoài những quyền lợi cơ bản nêu trên, người lao động là phụ nữ mang thai nếu muốn chấm dứt hợp đồng lao động khi nhận thấy công việc có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của bản thân và thai nhi. Căn cứ điều 138 Bộ luật Lao động 2019 quy định như sau:
“1. Lao động nữ mang thai nếu có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi thì có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.
Trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động thì phải thông báo cho người sử dụng lao động kèm theo xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi.
2. Trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, thời gian tạm hoãn do người lao động thỏa thuận với người sử dụng lao động nhưng tối thiểu phải bằng thời gian do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định tạm nghỉ. Trường hợp không có chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về thời gian tạm nghỉ thì hai bên thỏa thuận về thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.”
2. Phụ nữ mang thai có được tăng ca, làm thêm giờ không?
Phụ nữ đang trong thời kỳ mang thai vẫn được làm thêm giờ tùy theo thời điểm mang thai và sức khỏe của người phụ nữ khi mang thai. Theo Điều 137
“1.Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động làm việc ban đêm; làm thêm giờ và đi công tác xa trong trường hợp sau đây:
a) Mang thai từ tháng thứ 07 hoặc từ tháng thứ 06 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo;
b) Đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp được người lao động đồng ý.
2.Lao động nữ làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; hoặc làm nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con khi mang thai; và có thông báo cho người sử dụng lao động biết thì được người sử dụng lao động chuyển sang làm công việc nhẹ hơn an toàn hơn; hoặc giảm bớt 01 giờ làm việc hằng ngày mà không bị cắt giảm tiền lương và quyền; lợi ích cho đến hết thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
3.Người sử dụng lao động không được sa thải; hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi; trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự; mất tích hoặc đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động; hoặc bị cơ quan chuyên môn về đăng ký kinh doanh thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra thông báo không có người đại diện theo pháp luật; người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật.
Trường hợp hợp đồng lao động hết hạn trong thời gian lao động nữ mang thai; hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì được ưu tiên giao kết hợp đồng lao động mới.
Như vậy, lao động nữ mang thai từ từ tháng thứ 07 hoặc từ tháng thứ 06 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo thì người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động làm việc ban đêm, làm thêm giờ và đi công tác xa. Điều này đã quy định cụ thể trong Bộ luật lao động 2019, nếu trong thời điểm người phụ nữ mang thai từ tháng tứ 7 trở đi mà người sử dụng lao động vẫn bắt họ làm thêm, tăng ca ngoài giờ thì người sử dụng lao động đã vi phạm pháp luật và có thể bị xử lý hành chính. Nếu trường hợp người sử dụng lao động cố tình vi phạm những điều trên thì có thể bị xử phạt vi phạm hành chính từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng và buộc phải thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định pháp luật. Căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 28 Nghị định 12/2022/NĐ-CP. Tuy nhiên, mức xử phạt này đối với cá nhân còn tổ chức sẽ gấp đôi.
“2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:
a) Sử dụng người lao động mang thai từ tháng thứ 07 hoặc từ tháng thứ 06 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo làm thêm giờ hoặc làm việc ban đêm hoặc đi công tác xa;
b) Sử dụng người lao động đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi làm thêm giờ hoặc làm việc ban đêm hoặc đi công tác xa, trừ trường hợp được người lao động đồng ý;
c) Không thực hiện việc chuyển công việc hoặc giảm giờ làm đối với lao động nữ làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con khi mang thai mà người lao động đã thông báo với người sử dụng lao động biết theo quy định tại khoản 2 Điều 137 của Bộ luật Lao động, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác;
d) Không cho lao động nữ nghỉ 30 phút mỗi ngày trong thời gian hành kinh trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác;
đ) Không cho lao động nữ trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi nghỉ 60 phút mỗi ngày trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác;
3.Biện pháp khắc phục hậu quả
a) Buộc người sử dụng lao động trả tiền lương cho người lao động nữ tương ứng với thời gian người lao động nữ không được nghỉ trong thời gian hành kinh theo quy định của pháp luật khi có hành vi vi phạm quy định tại điểm d khoản 2 Điều này;
b) Buộc người sử dụng lao động trả tiền lương cho người lao động nữ tương ứng với thời gian người lao động nữ không được nghỉ trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi theo quy định của pháp luật đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm đ khoản 2 Điều này;
c) Buộc người sử dụng lao động nhận người lao động trở lại làm việc khi có hành vi vi phạm quy định tại điểm i khoản 2 Điều này.”
Phụ nữ trong thời kỳ mang thai là một đối tượng được gia đình, nhà nước và xã hội quan tâm, tạo điều kiện tốt nhất trong khả năng có thể. Lao động nữ cần nắm rõ những quyền lợi của mình để bảo vệ những lợi ích hợp pháp của bản thân, tránh những hậu quả không đáng có có thể xảy ra với bản thân mình và với đứa con sắp sửa chào đời trong bụng họ.