Hiện nay với sự hiểu biết và thích nghi môi trường thì không thể không tìm hiểu về những căn bệnh có thể truyền nhiễm như HIV, trong đó có những trường hợp phơi nhiễm với HIV. Đối với phơi nhiễm HIV có thể được điều trị khỏi mà không dẫn đến nhiễm bệnh. Vậy phơi nhiễm về HIV là gì?
Mục lục bài viết
1. Phơi nhiễm HIV là gì?
Phơi nhiễm với HIV được pháp luật quy định không phải là bệnh truyền nhiễm giống như HIV mà là nguy cơ bị lây nhiễm HIV do tiếp xúc trực tiếp với máu hoặc dịch sinh học của cơ thể người nhiễm HIV.
Theo định nghĩa của Bộ Y tế thì phơi nhiễm HIV là một thuật ngữ được dùng để chỉ sự tiếp xúc niêm mạc hay da của người không bị bệnh với máu và mô hay các dịch cơ thể của người khác nhiễm HIV từ đó dẫn tới nguy cơ lây nhiễm HIV.
Phơi nhiễm với HIV (trong tiếng anh được dich là Exposure) đây được coi là trường hợp có tiếp xúc trực tiếp với máu hoặc các dịch cơ thể của người đã bị nhiễm HIV hoặc nghi ngờ nhiễm HIV nên từ đó dẫn đến nguy cơ lây nhiễm HIV. Để xác định người bị phơi nhiễm HIV thì dựa vào tính chất thường gặp hoặc nghề nghiệp sẽ chia ra 2 loại phơi nhiễm nghề nghiệp và ngoài môi trường nghề nghiệp tức là những khả năng phơi nhiễm tại cộng đồng.
Những môi dễ dàng xảy ra phơi nhiễm với HIV đó có thể là do tai nạn nghề nghiệp thường xảy ra ở những người làm nghề y do bị xơ sẩy có thể bị kim đâm trong khi làm khám chữa bệnh, tiêm truyền, lấy máu xét nghiệm, vết thương do dao mổ và các dụng cụ y tế sắc nhọn khác có dính máu hoặc dịch cơ thể của người bệnh gây tổn thương. Phơi nhiễm do tai nạn nghề nghiệp cũng còn gặp ở trong một số ngành khác như công an, quân đội xảy ra khi làm nhiệm vụ trấn áp tội phạm liên quan đến ma túy, tệ nạn xã hội.
Còn phơi nhiễm với HIV không do nghề nghiệp là những trường hợp phơi nhiễm với máu, dịch cơ thể có khả năng làm lây nhiễm HIV không liên quan đến nghề nghiệp. Theo số liệu thống kê các trường hợp phơi nhiễm cộng đòng thường gặp như quan hệ tình dục không sử dụng bao cao su hoặc bao cao su bị vỡ, rách hoặc nằm trong trường hợp bị cưỡng dâm không thể có biện pháp phòng ngừa, nhiều người sử dụng chung bơm kim tiêm đối với người nghiện chích ma tuý có thể là biết hoặc vô tình dùng chung; Vết thương do đâm phải kim hoặc các vật sắc nhọn vứt ra các khu vực công cộng và có dính máu nhìn thấy được thậm chí là vết thương do người nghi nhiễm HIV cắn gây chảy máu. v.v…
Trên thực tế, dã có nhận định cho rằng không phải trường hợp nào những người bị phơi nhiễm HIV cũng đồng nghĩa với việc sẽ bị nhiễm HIV. Mà phơi nhiễm còn phụ thuộc vào từng hành vi cụ thể và mức độ nguy cơ của hành vi đó là trực tiếp có quan hệ tiếp xúc hay trong tình huống cần xác định xem đã tiếp xúc với những vật liên quan đến người nhiễm, nghi ngờ nhiễm. Khi gặp trường hợp rủi ro, việc xử lý vết thương sau phơi nhiễm là rất quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt, giúp cho bạn và người thân hạn chế được nguy cơ lây nhiễm HIV.
2. Điều kiện dự phòng sau khi phơi nhiễm HIV:
Đối với bệnh HIV là căn bệnh truyền nhiễm hiện nay chưa có thuốc có thể chữa khỏi triệt để nhưng đối với phơi nhiễm HIV thì đây là do va chạm với những vết thương của người nhiễm HIV hoặc do những vật dụng của người nhiễm HIV đã sử dụng do tiếp xúc trực tiếp máu của hai đối tượng. Bởi lẽ trong y tế đã chứng minh không phải cứ phơi nhiễm HIV la bị bệnh mà cần xử lý các tình huống đó để kịp thười ngăn cản.
Điều kiện để điều trị dự phòng sau phơi nhiễm đó là cần điều trị dự phòng sau phơi nhiễm khi thỏa mãn 3 yếu tố sau:
+ Chưa nhiễm HIV hoặc chưa rõ tình trạng huyết thanh của mình.
+ Có phơi nhiễm với HIV hoặc nghi ngờ phơi nhiễm với HIV (quan hệ không bao, rách bao, bị kim đâm…);
+ Không quá 72 giờ tính từ lúc phơi nhiễm. Thì bạn có thể cần đến điều trị dự phòng sau phơi nhiễm, và nên càng sớm càng tốt.
3. Một số cách xử lý khi phơi nhiễm HIV:
Thứ nhất là xử lý khi phơi nhiễm HIV do nghề nghiệp:
– Người bị phơi nhiễm xử lý vết thương tại chỗ bằng cách rửa ngay vết thương dưới vòi nước, nếu vết thương chảy máu, để vết thương tự chảy máu trong một thời gian ngắn, không nặn bóp vết thương và phải rửa kỹ bằng xà phòng và nước sạch.
– Nếu phơi nhiễm qua niêm mạc mắt phải rửa mắt bằng nước cất hoặc nước muối NaCl 0,9% liên tục trong 5 phút.
– Nếu phơi nhiễm qua mũi, miệng cũng phải rửa mũi hoặc xúc miệng bằng nước cất hoặc dung dịch NaCl 0,9 % nhiều lần.
– Các trường hợp khi phát hiện phơi nhiễm cần phải báo cáo người phụ trách và làm biên bản nêu rõ ngày giờ, hoàn cảnh xảy ra, sau đó thực hiện mời cơ sở y tế đánh giá vết thương, mức độ nguy cơ của phơi nhiễm. Lấy chữ ký của người chứng kiến và chữ ký của người phụ trách để phục vụ làm các chế độ sau này nếu cần thiết.
– Đánh giá nguy cơ phơi nhiễm theo mức độ tổn thương và diện tích tiếp xúc và lấy đó làm cơ sở để dựa trên mức độ tổn thương của da, độ sâu, có chảy máu hay không….. từ đó xác định phơi nhiễm đó có nguy cơ hay không có nguy cơ để giúp việc đưa ra quyết định chọn cách điều trị ARV.
Khi xác định được nguồn phơi nhiễm thì cơ quan có trách nhiệm:
+ Xác định tình trạng HIV của nguồn gây phơi nhiễm để xem xét nguồn phơi nhiễm có nhiễm HIV hay không.
+ Xác định tình trạng HIV của người bị phơi nhiễm thông qua tư vấn xét nghiệm HIV cho người bị phơi nhiễm.
Từ đố, đưa ra nhưng tư vấn cho người bị phơi nhiễm về các nguy cơ nhiễm HIV và viêm gan B, C, điều trị dự phòng ARV… và đưa vào điều trị dự phòng bằng thuốc ARV.
Thứ hai là xử lý khi phơi nhiễm HIV ngoài môi trường nghề nghiệp:
Do tình huống phơi nhiễm HIV ngoài môi trường nghề nghiệp rất đa dạng và nguy cơ phơi nhiễm rất khác nhau nhưng mức độ phơi nhiễm do những dụng cụ của người bị nhiễm HIV là rất lớn. Do vậy người bị phơi nhiễm HIV ngoài cộng đồng khi nhận thấy việc mình bị phơi nhiễm cần đến ngay các cơ sở tư vấn HIV/AIDS để:
– Đánh giá về tình trạng nhiễm HIV; phạm vi, tần suất và thời gian có nguy cơ phơi nhiễm; nhiễm HIV của nguồn lây nhiễm.
– Tư vấn trước xét nghiệm HIV.
– Tiến hành các xét nghiệm ban đầu như: HIV, viêm gan vi rút B, C; xét nghiệm đánh giá tình trạng mang thai và nếu có thể xét nghiệm tình trạng HIV của người gây phơi nhiễm cho người gây phơi nhiễm nếu chưa biết tình trạng nhiễm HIV và tiến hành điều trị dự phòng bằng thuốc ARV nếu thấy cần thiết.
4. Cách điều trị dự phòng bằng ARV cho người bị phơi nhiễm:
Dù là phơi nhiễm HIV do nghề nghiệp hay ngoài môi trường nghề nghiệp thì việc điều trị ARV cho người bị phơi nhiễm HIV cũng cần theo nguyên tắc:
– Chỉ điều trị ARV khi có chỉ định của thày thuốc sau khi đã được tư vấn về nguy cơ lây nhiễm HIV và có nguy cơ lây nhiễm HIV. Không tự mua thuốc để dùng theo người không có chuyên môn mách bảo.
– Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm nên được bắt đầu càng sớm càng tốt cho tất cả đối tượng có nguy cơ lây nhiễm HIV, tối ưu nhất trong vòng 72 giờ.
– Sử dụng phác đồ ba thuốc uống hàng ngày và điều trị dự phòng 28 ngày cho tất cả các trường hợp phơi nhiễm có nguy cơ. Ngừng thuốc khi xác định nguồn phơi nhiễm âm tính với HIV.
– Theo dõi trong và sau điều trị như theo dõi và xử trí tác dụng phụ của ARV; tư vấn và hỗ trợ tâm lý cũng như xét nghiệm lại HIV sau 3 tháng.v.v..
– Không điều trị dự phòng bằng ARV sau phơi nhiễm cho các trường hợp: Người bị phơi nhiễm đã nhiễm HIV; Nguồn gây phơi nhiễm được khẳng định là HIV âm tính; Phơi nhiễm với các dịch cơ thể không có nguy cơ lây nhiễm đáng kể như nước mắt, dịch nước bọt không dính máu, nước tiểu và mồ hôi và cũng không điều trị ARV với người phơi nhiễm liên tục với HIV như quan hệ tình dục thường xuyên với người nhiễm HIV hoặc gái mại dâm nhưng hiếm khi sử dụng bao cao su; người nghiện chích ma tuý thường xuyên sử dụng chung bơm kim tiêm.
Cách điều trị phơi nhiễm bằng PEP – hay còn gọi là dự phòng sau phơi nhiễm HIV có hiệu quả nhất trong việc ngăn ngừa nhiễm HIV trong vòng 72 giờ ngay sau khi có nguy cơ phơi nhiễm (tức là có nguy cơ nhiễm HIV sau khi tiếp xúc trực tiếp với máu hoặc dịch tiết của người có HIV). PEP cần phải được tuân thủ đủ số liều trong vòng 28 ngày.
PEP được điều trị bằng cách là dùng thuốc kháng vi-rút (ARV) sau khi có khả năng phơi nhiễm với HIV để tránh bị nhiễm HIV. Để thuốc có hiệu quả thì người phơi nhiễm bắt đầu trong vòng 72 giờ sau khi phơi nhiễm HIV, tuy nhiên khuyến khích nên bắt đầu PEP càng sớm thì càng tốt có giá trị theo từng giờ và việc sử dụng PEP theo quy định sẽ cần tuân thủ điều trị trong 28 ngày.
Tuy nhiên đối với cách điều trị bằng PEP chỉ nên được sử dụng trong các tình huống khẩn cấp và phải được bắt đầu trong vòng 72 giờ sau khi phơi nhiễm HIV.
PEP có hiệu quả, nhưng không phải 100%, vì vậy nếu vẫn đang phát sinh các quan hệ liên quan đến đường tình dục thì nên tiếp tục sử dụng bao cao su và có các biện pháp an toàn trong khi dùng PEP. Bởi lẽ đây là những biện pháp có thể bảo vệ bạn khỏi bị phơi nhiễm HIV một lần nữa và giảm cơ hội lây truyền HIV cho người khác nếu bạn bị nhiễm bệnh trong khi bạn vẫn đang dùng PEP.
Như vậy, đối với cách dự phòng sau khi phơi nhiễm HIV là hoàn toàn có thể giúp người phơi nhiễm có thể kịp thời ngăn cản trươc khi bị nhiễm HIV. Người phơi nhiễm HIV xác định được thời gian xảy ra tình huống để được kịp thời đưa đi xét nghiệm nguồn phơi nhiễm từ đó lấy cơ sở để lựa chọn biện pháp xử lý phơi nhiễm.