Trong xã hội hiện đại, bình đẳng giới là một nguyên tắc Hiến định và là giá trị cốt lõi trong xây dựng Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những hành vi phân biệt, cản trở nam hoặc nữ tham gia bình đẳng vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhằm bảo vệ quyền này, Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định riêng Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới tại Điều 165.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới:
- 4 4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới:
- 5 5. Phân biệt với Tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo:
- 6 6. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong thời đại hiện nay:
1. Khái quát chung về Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới:
1.1. Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới là gì?
Khoản 3 Điều 5 Luật Bình đẳng giới 2006 quy định: Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.
Ở góc độ pháp lý: Bình đẳng giới được hiểu là việc không ai được phép vì lý do giới tính mà hạn chế hoặc cản trở quyền tham gia, quyền phát triển của người khác trong bất kỳ lĩnh vực nào. Việc vi phạm nguyên tắc bình đẳng giới có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, làm mất cơ hội học tập và việc làm, mất cơ hội thăng tiến hoặc cản trở sự phát triển toàn diện của một cá nhân.
Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới là hành vi của người đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cản trở người khác tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội vì lý do giới nhưng vẫn tiếp tục vi phạm, người thực hiện hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 165 Bộ luật Hình sự 2015.
Tóm lại, Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới là công cụ pháp lý hình sự để bảo vệ quyền bình đẳng nam nữ và phòng chống phân biệt giới tính trong xã hội, thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong việc đưa bình đẳng giới trở thành nguyên tắc bắt buộc chung.
1.2. Ý nghĩa của việc quy định Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới
- Thứ nhất, bảo đảm quyền con người và nguyên tắc công bằng xã hội. Quyền bình đẳng giới là một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp năm 2013 khẳng định rõ tại khoản 2 Điều 26. Việc hình sự hóa hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới trong Bộ luật Hình sự 2015 cho thấy Nhà nước không chỉ dừng ở việc tuyên bố quyền mà còn có cơ chế bảo vệ hữu hiệu. Điều này góp phần bảo đảm công bằng xã hội, khẳng định mọi công dân đều có quyền ngang nhau bất kể giới tính.
- Thứ hai, nâng cao hiệu quả bảo vệ chính sách bình đẳng giới. Trước đây, các hành vi phân biệt giới thường chỉ bị xử lý bằng biện pháp kỷ luật hoặc xử phạt hành chính, dẫn đến tính răn đe thấp. Bộ luật Hình sự 2015 quy định tội danh cụ thể này tại Điều 165 nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ chính sách bình đẳng giới. Đây là bước tiến quan trọng trong việc nội luật hóa các cam kết quốc tế về quyền con người, trong đó có Công ước CEDAW (Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 18/12/1979) mà Việt Nam là thành viên.
- Thứ ba, ngăn chặn, răn đe và giáo dục ý thức xã hội. Quy định tội danh này có tác dụng ngăn ngừa và răn đe đối với những người có ý định hoặc đã từng thực hiện hành vi phân biệt giới. Đồng thời việc xử lý hình sự cũng mang tính giáo dục, góp phần thay đổi nhận thức xã hội, nhất là ở những lĩnh vực còn tồn tại định kiến giới mạnh mẽ như lao động, chính trị, quản lý nhân sự và giáo dục. Qua đó cho thấy pháp luật không chỉ trừng trị mà còn khuyến khích sự tôn trọng và thực hành bình đẳng giới trong đời sống hằng ngày.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới:
Điều 165 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới như sau:
“1. Người nào vì lý do giới mà thực hiện hành vi dưới bất kỳ hình thức nào cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với 02 người trở lên.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới:
2.1. Khách thể:
Điều 26 Hiến pháp 2013 quy định: Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.
Hành vi của Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới xâm phạm trực tiếp tới quyền bình đẳng giới trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế (Điều 26 Hiến pháp năm 2013).
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới là hành vi cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào. Cụ thể như sau:
- Hành vi dùng vũ lực: Là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động vào người khác như đánh, trói… nhằm cản trở họ tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế;
- Hành vi đe dọa dùng vũ lực: Là hành vi bằng lời nói, cử chỉ dọa sẽ dùng vũ lực để cản trở họ tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế… theo ý muốn của người phạm tội;
- Hành vi uy hiếp tinh thần: Là hành vi đe dọa gây thiệt hại về tài sản, danh dự, uy tín…người khác buộc họ phải làm theo ý muốn của người phạm tội là họ không tham gia hoặc phải từ bỏ tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế;
- Sử dụng thủ đoạn khác: Có thể lợi dụng chức vụ quyền hạn để cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế.
Những hành vi trên chỉ cấu thành Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới khi chủ thể đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này. Cụ thể:
- Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm: Là cá nhân đã từng có hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới, đã bị xử lý bằng một trong những hình thức kỷ luật theo quy định của Nhà nước hoặc theo quy định trong Điều lệ của tổ chức và chưa hết thời hạn được xóa kỷ luật, nay lại có hành vi xâm phạm quyền bình đẳng của con người. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý kỷ luật nhưng về hành vi khác không phải là hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới thì không cấu thành tội phạm này;
- Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm: Là cá nhân đã từng thực hiện hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới của người khác, đã bị xử phạt hành chính bằng một trong những hình thức xử phạt hành chính hoặc bằng một trong những hình thức xử lý hành chính khác theo quy định của Luật Xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính (01 năm), nay lại có hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới của con người. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý hành chính nhưng về hành vi khác không phải là hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới của con người thì cũng không cấu thành tội phạm này.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới có thể là bất kỳ cá nhân nào đáp ứng được điều kiện về độ tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Cụ thể:
- Điều 12 của Bộ luật Hình sự 2015 quy định rằng người từ đủ 16 tuổi trở lên là chủ thể của Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới;
- Có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bao gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi. Trường hợp người phạm tội không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực trách nhiệm hình sự, có thể được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 của Bộ luật Hình sự 2015.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới được thực hiện do lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp.
Người phạm tội nhận thức rõ ràng rằng hành vi của mình là cản trở người khác tham gia vào các hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế là trái pháp luật. Họ có thể thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra, hoặc họ nhận thức rõ ràng rằng hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả có thể xảy ra mặc dù không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Người phạm tội này có thể có nhiều động cơ khác nhau. Tuy nhiên động cơ không phải là yếu tố bắt buộc để xác định tội phạm này, do đó việc xác định động cơ phạm tội chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.
Mục đích của người phạm tội là mong muốn ngăn cản người khác giới không tham gia vào các hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế.
3. Khung hình phạt của Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới:
Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới theo Điều 165 Bộ luật Hình sự 2015 quy định 02 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung như sau:
Khung 1: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
Khung 2: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
- Phạm tội 02 lần trở lên;
- Đối với 02 người trở lên.
Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới được quy định tại khoản 2 Điều 165 Bộ luật Hình sự 2015 với các tình tiết sau đây:
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn theo điểm a khoản 2 Điều 165 Bộ luật Hình sự 2015:
Đây là tình tiết tăng nặng khi người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thực hiện hành vi cản trở người khác vì lý do giới. Trường hợp này đặc biệt nguy hiểm vì hành vi không chỉ mang tính phân biệt đối xử về giới mà còn lợi dụng uy tín, quyền lực Nhà nước hoặc quyền lực trong tổ chức để áp đặt gây khó khăn cho người khác.
Ví dụ: Lãnh đạo cơ quan cố tình không bổ nhiệm hoặc không cho phép một nữ cán bộ tham gia ứng cử vào vị trí quản lý chỉ vì lý do giới tính.
Việc lợi dụng quyền hạn làm cho hành vi phạm tội có sức ảnh hưởng lớn hơn so với trường hợp phạm tội thông thường. Vì vậy cần xử lý nghiêm khắc hơn.
- Phạm tội 02 lần trở lên theo điểm b khoản 2 Điều 165 Bộ luật Hình sự 2015:
Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội lặp lại hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới từ 02 lần trở lên. Điều này cho thấy sự cố ý và thái độ coi thường pháp luật và quyền con người.
Ví dụ: Giảng viên nhiều lần ngăn cản nữ sinh tham gia vào các hoạt động nghiên cứu khoa học vì lý do giới tính dù đã từng bị nhắc nhở hoặc xử phạt hành chính trước đó.
Sự tái diễn này chứng minh mức độ nguy hiểm cao hơn nhiều so với trường hợp vi phạm lần đầu và đòi hỏi phải áp dụng khung hình phạt nặng hơn để đảm bảo tính răn đe.
- Đối với 02 người trở lên theo điểm c khoản 2 Điều 165 Bộ luật Hình sự 2015:
Trường hợp hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới được thực hiện đối với từ hai người trở lên cũng là tình tiết định khung tăng nặng. Bởi lẽ thay vì xâm phạm quyền lợi của một cá nhân đơn lẻ, hành vi đã gây tổn hại cho nhiều người và tạo ra tác động tiêu cực rộng rãi hơn trong xã hội.
Ví dụ: Doanh nghiệp từ chối tuyển dụng toàn bộ lao động nữ vào một vị trí công việc nhất định chỉ vì lý do giới tính.
Điều này không chỉ ảnh hưởng đến cơ hội việc làm của nhiều phụ nữ mà còn có thể tạo ra tiền lệ xấu, từ đó làm suy giảm niềm tin vào chính sách bình đẳng giới. Vì vậy, việc xử lý nghiêm hành vi phạm tội trong trường hợp này vừa bảo vệ quyền lợi cho nhiều người vừa bảo đảm tính công bằng xã hội.
5. Phân biệt với Tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo:
Tiêu chí | Tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 164 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới (Điều 165 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể bị xâm phạm | Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân (quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nhất định) | Quyền bình đẳng giới của công dân trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục, văn hóa, y tế, thể thao… |
Hành vi phạm tội | Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để ngăn cản hoặc ép buộc người khác thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo | Cản trở người khác tham gia hoạt động xã hội vì lý do giới, dưới bất kỳ hình thức nào |
Điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự | Người vi phạm đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn tái phạm | Người vi phạm đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi phân biệt giới mà còn tái phạm |
Lỗi | Lỗi cố ý (người phạm tội nhận thức rõ việc ngăn cản/ép buộc người khác nhưng vẫn thực hiện) | Lỗi cố ý (nhận thức rõ hành vi phân biệt giới nhưng vẫn thực hiện) |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. | Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm. Khung 2: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Mức độ nguy hiểm cho xã hội | Nguy hiểm cao hơn, vì hành vi có thể gây mất ổn định xã hội, dẫn đến biểu tình, ảnh hưởng an ninh quốc gia | Nguy hiểm ở mức độ hạn chế hơn, chủ yếu xâm phạm quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong hoạt động xã hội |
Bản chất pháp lý | Hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, một quyền hiến định quan trọng gắn liền với an ninh chính trị, trật tự xã hội | Hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới, chủ yếu ảnh hưởng đến công bằng xã hội và quyền nhân thân của công dân |
6. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong thời đại hiện nay:
6.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế thực thi:
Một trong những biện pháp quan trọng nhất để thúc đẩy bình đẳng giới là xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý gồm:
- Luật Bình đẳng giới 2006;
- Luật Phòng chống bạo lực gia đình;
- Bộ luật Lao động;
- Luật Hôn nhân và gia đình;
- Và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Bên cạnh đó cũng cần có cơ chế giám sát và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm, đồng thời bổ sung quy định phù hợp với những thách thức mới của xã hội hiện đại như: Quấy rối tình dục nơi làm việc, phân biệt giới trong công nghệ và môi trường số.
6.2. Giáo dục và thay đổi nhận thức xã hội:
Định kiến giới là một trong những rào cản lớn nhất đối với bình đẳng giới. Vì vậy, cần tăng cường giáo dục bình đẳng giới ngay từ bậc học phổ thông, lồng ghép trong chương trình đào tạo và lan tỏa thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng.
Việc truyền thông tích cực về vai trò của phụ nữ trong lãnh đạo, khoa học, kinh doanh… sẽ góp phần thay đổi cách nhìn của xã hội, khuyến khích mọi người tôn trọng và thực hành bình đẳng giới trong đời sống hằng ngày.
6.3. Bảo đảm cơ hội bình đẳng trong lao động và thăng tiến:
Cần có chính sách ưu tiên, hỗ trợ phụ nữ tiếp cận các vị trí quản lý, lãnh đạo; tạo điều kiện về đào tạo nghề, vốn vay, khởi nghiệp. Đồng thời, cần xóa bỏ tình trạng phân biệt giới trong tuyển dụng, trả lương và thăng tiến. Một môi trường làm việc công bằng, nơi nam và nữ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau không chỉ thúc đẩy bình đẳng giới mà còn nâng cao hiệu quả và năng suất lao động cho xã hội.
6.4. Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị xã hội:
Bình đẳng giới không thể đạt được nếu phụ nữ bị hạn chế trong việc tham gia quản lý nhà nước và các tổ chức xã hội. Do đó, cần tiếp tục thúc đẩy tỷ lệ nữ giới trong Quốc hội, các cơ quan hành chính và tổ chức xã hội khác. Sự hiện diện của phụ nữ trong các vị trí lãnh đạo góp phần đưa tiếng nói giới nữ vào quá trình hoạch định chính sách cũng như bảo đảm lợi ích cân bằng giữa các giới.
THAM KHẢO THÊM: