Ủy quyền nuôi con là việc cha, mẹ lập văn bản trao quyền chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cho người khác thực hiện thay mình trong một thời gian nhất định, khi bản thân không thể trực tiếp chăm con. Bài viết này sẽ phân tích cơ sở pháp lý, điều kiện và thủ tục ủy quyền nuôi con, giúp bạn thực hiện đúng quy định, bảo đảm quyền lợi và sự ổn định cho trẻ.
Mục lục bài viết
1. Khái niệm và bản chất pháp lý của việc ủy quyền nuôi con:
1.1. Ủy quyền nuôi con là gì?
Về bản chất, “ủy quyền nuôi con” là việc cha hoặc mẹ giao cho một cá nhân khác thực hiện thay mình một số công việc liên quan đến chăm sóc, quản lý, đại diện hành chính đối với con trong một thời hạn nhất định, trên cơ sở hợp đồng ủy quyền. Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận theo đó bên được ủy quyền nhân danh bên ủy quyền thực hiện công việc trong phạm vi ủy quyền (Điều 562) và quyền đại diện được xác lập bằng ủy quyền chỉ phát sinh hiệu lực trong phạm vi đã thỏa thuận (khoản 1 Điều 138). Giao dịch do người được ủy quyền xác lập hợp lệ trong phạm vi ủy quyền làm phát sinh quyền, nghĩa vụ trực tiếp cho bên ủy quyền (khoản 1 Điều 141). Về điều kiện có hiệu lực, văn bản ủy quyền phải đáp ứng đủ điều kiện của giao dịch dân sự về chủ thể, ý chí và mục đích, nội dung hợp pháp (khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015) và được lập bằng văn bản theo quy định về hình thức (khoản 1 Điều 119 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Dưới góc độ Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con chưa thành niên là nghĩa vụ pháp lý trực tiếp, thường xuyên (Điều 69). Sau ly hôn, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi thuộc thẩm quyền của Tòa án và phải bảo đảm quyền lợi mọi mặt của con (khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Bởi vậy, ủy quyền nuôi con chỉ mang ý nghĩa ủy thác thực hiện công việc hằng ngày nhân danh cha hoặc mẹ (chẳng hạn làm thủ tục học tập, y tế, nhận trợ cấp…) chứ không làm thay đổi “tư cách người trực tiếp nuôi con” đã được xác lập bằng bản án hoặc quyết định của Tòa án.
1.2. Phân biệt ủy quyền nuôi con với chuyển giao quyền nuôi con theo quyết định của Tòa án:
Ủy quyền nuôi con là một giao dịch dân sự về đại diện: cha hoặc mẹ cho phép người khác thay mình thực hiện hành vi vì lợi ích của con trong phạm vi, thời hạn và điều kiện đã thỏa thuận; phạm vi này không được bao gồm những việc pháp luật buộc đích danh chủ thể phải tự mình thực hiện (khoản 4 Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 2015). Việc ủy quyền không thể tước, hạn chế hay chuyển dịch quyền, nghĩa vụ cốt lõi của cha mẹ đối với con, càng không thể làm thay đổi người trực tiếp nuôi con theo bản án đã có hiệu lực.
Ngược lại, “chuyển giao quyền nuôi con” theo đúng nghĩa pháp lý là thay đổi người trực tiếp nuôi con chỉ được Tòa án quyết định khi có yêu cầu và có căn cứ theo Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Cụ thể, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức theo luật định và khi người đang trực tiếp nuôi không còn đủ điều kiện để tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, hoặc khi việc thay đổi là cần thiết để bảo đảm lợi ích của con (khoản 1, khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014). Trường hợp con từ đủ 07 tuổi trở lên, Tòa án phải xem xét nguyện vọng của con khi quyết định thay đổi theo khoản 3 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Sự khác biệt cốt lõi được thể hiện ở đây là ủy quyền chỉ tạo quyền đại diện để làm việc trong đời sống hằng ngày nhân danh cha, mẹ, còn thay đổi người trực tiếp nuôi con là quyết định tư pháp làm thay đổi địa vị pháp lý của người nuôi dưỡng, kèm theo hệ quả về nghĩa vụ cấp dưỡng, quyền thăm nom và các quyền, nghĩa vụ khác giữa cha, mẹ và con theo các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Do đó, nếu nhu cầu thực tế là “đổi người trực tiếp nuôi”, các bên buộc phải khởi kiện/yêu cầu Tòa án giải quyết theo Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, còn nếu chỉ cần một người thứ ba hỗ trợ thực hiện công việc hằng ngày cho con, thì các bên lập hợp đồng ủy quyền theo Điều 562 và các điều từ Điều 565 đến Điều 569 Bộ luật Dân sự năm 2015 là phù hợp.
2. Điều kiện để thực hiện việc ủy quyền nuôi con:
2.1. Điều kiện đối với người ủy quyền và người được ủy quyền theo quy định pháp luật:
Về chủ thể, người ủy quyền phải là cha, mẹ có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và đang có quyền, nghĩa vụ đối với con theo luật (Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Điều 69 về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con; sau ly hôn, người được giao trực tiếp nuôi con theo khoản 2, khoản 3 Điều 81).
Về cơ chế, ủy quyền là đại diện theo ủy quyền được xác lập bằng hợp đồng ủy quyền: bên được ủy quyền nhân danh bên ủy quyền thực hiện công việc trong phạm vi ủy quyền (Bộ luật Dân sự 2015: khoản 1 Điều 138 về đại diện theo ủy quyền; Điều 562 về hợp đồng ủy quyền; Điều 141 về phạm vi ủy quyền). Người được ủy quyền cũng phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ để thực hiện công việc được giao (Bộ luật Dân sự 2015 khoản 1 Điều 134, khoản 1 Điều 138).
Lưu ý: pháp luật không cho phép ủy quyền đối với những việc mà luật buộc đích danh cha, mẹ phải tự mình thực hiện, vì vậy, ủy quyền chỉ có thể bao trùm các công việc chăm sóc, quản lý, đại diện hành chính thường ngày (ví dụ làm thủ tục học tập, khám chữa bệnh, nhận trợ cấp…), chứ không thể chuyển giao “tư cách người trực tiếp nuôi con” vốn chỉ được xác lập bởi bản án/quyết định của Tòa án theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
2.2. Yêu cầu về sự đồng ý của các bên và bảo đảm quyền lợi tốt nhất cho trẻ:
Mọi thỏa thuận ủy quyền phải tôn trọng nguyên tắc lợi ích tốt nhất của con trong quan hệ gia đình (Luật Hôn nhân và gia đình 2014 Điều 2 về nguyên tắc cơ bản; khi giao con sau ly hôn phải “bảo đảm quyền lợi mọi mặt của con” theo khoản 2 Điều 81). Nội dung và phạm vi ủy quyền không được làm phương hại đến quyền, nghĩa vụ pháp lý đang có của bên còn lại; đặc biệt, quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi không bị cản trở (Luật Hôn nhân và gia đình 2014 khoản 1 Điều 82, khoản 2 Điều 82).
Nếu việc ủy quyền dẫn đến thay đổi lớn về nơi ở, học tập, chăm sóc dài hạn… ảnh hưởng thực chất tới việc ai là người trực tiếp nuôi, thì không thể chỉ dùng ủy quyền mà phải yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con theo Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Trường hợp con từ đủ 07 tuổi trở lên, khi có bất kỳ điều chỉnh nào liên quan người trực tiếp nuôi, phải xem xét nguyện vọng của con (Luật Hôn nhân và gia đình 2014 khoản 3 Điều 84). Ở phương diện dân sự, hợp đồng ủy quyền phải được lập bằng văn bản, phù hợp quy định về hình thức của giao dịch dân sự (Bộ luật Dân sự 2015 khoản 1 Điều 119, Điều 562).
Thực tiễn nhiều cơ quan/đơn vị tiếp nhận hồ sơ yêu cầu văn bản ủy quyền có công chứng/chứng thực để bảo đảm giá trị sử dụng.
2.3. Các trường hợp pháp luật không cho phép ủy quyền nuôi con:
Thứ nhất, không được ủy quyền để “chuyển giao” tư cách người trực tiếp nuôi con hoặc làm thay thủ tục thay đổi người trực tiếp nuôi con. Việc này chỉ do Tòa án quyết định khi có yêu cầu và có căn cứ theo khoản 1, khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (ví dụ: người đang nuôi không còn đủ điều kiện; hoặc bên kia có điều kiện tốt hơn vì lợi ích của trẻ). Ủy quyền chỉ cho phép người được ủy quyền thực hiện các việc trong đời sống thường ngày nhân danh cha/mẹ, không làm thay đổi phán quyết của Tòa án về quyền nuôi.
Thứ hai, không được ủy quyền đối với những hành vi pháp luật buộc cha, mẹ phải tự mình thực hiện, điển hình như các quyết định nhân thân cốt lõi của con hoặc các việc mà luật chuyên ngành yêu cầu đích danh cha/mẹ (Luật Hôn nhân và gia đình 2014 Điều 69 về trách nhiệm trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con).
Thứ ba, nếu cha/mẹ đang bị Tòa án hạn chế quyền đối với con (Luật Hôn nhân và gia đình 2014 khoản 1 Điều 85) do có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ với con, thì họ không thể dùng ủy quyền để tránh quy định về hạn chế. Trong trường hợp cần người chăm sóc thay, cơ chế giám hộ sẽ là khuôn khổ pháp lý phù hợp (Bộ luật Dân sự Điều 46 về giám hộ đối với người chưa thành niên; Điều 55 – Điều 58 về quyền, nghĩa vụ của người giám hộ).
Như vậy, ủy quyền nuôi con, nếu hiểu đúng bản chất, chỉ là cơ chế đại diện để thực hiện các công việc chăm sóc, quản lý thường ngày nhân danh cha/mẹ, trong khi tư cách người trực tiếp nuôi con và mọi thay đổi liên quan đến quyền này chỉ được xác lập hoặc điều chỉnh bằng phán quyết của Tòa án theo Điều 81, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Khi soạn thảo, cần ràng buộc phạm vi, thời hạn, quyền và nghĩa vụ theo Bộ luật Dân sự (Điều 562–568), đồng thời bảo đảm nguyên tắc lợi ích tốt nhất của trẻ và không xâm phạm quyền, nghĩa vụ của bên cha/mẹ còn lại (Luật Hôn nhân và gia đình 2014 Điều 2, Điều 81, Điều 82).
3. Thủ tục lập văn bản ủy quyền nuôi con:
3.1. Hình thức văn bản ủy quyền hợp pháp và yêu cầu bắt buộc về nội dung:
Về hình thức, giao dịch ủy quyền phải được lập thành văn bản theo quy định tại khoản 1 Điều 119 Bộ luật Dân sự năm 2015 về hình thức của giao dịch dân sự. Về bản chất, ủy quyền là một hợp đồng, theo đó bên được ủy quyền nhân danh bên ủy quyền thực hiện công việc trong phạm vi ủy quyền (quy định tại Điều 562 Bộ luật Dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 2015 về đại diện theo ủy quyền).
Văn bản ủy quyền cần thể hiện tối thiểu các nội dung:
- Thông tin của bên ủy quyền và bên được ủy quyền;
- Căn cứ pháp lý làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với con (ví dụ: quyết định hoặc bản án của Tòa án giao con trực tiếp nuôi, giấy khai sinh của con…);
- Đối tượng và phạm vi công việc được ủy quyền (chăm sóc hàng ngày, đại diện thực hiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực giáo dục, y tế…);
- Thời hạn ủy quyền theo Điều 563 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Quyền và nghĩa vụ của các bên theo Điều 565 đến Điều 568 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Thù lao nếu có;
- Cơ chế chấm dứt hợp đồng ủy quyền theo Điều 569 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Phạm vi ủy quyền không được bao gồm các công việc mà pháp luật bắt buộc cha, mẹ phải tự mình thực hiện và không làm thay đổi tư cách “người trực tiếp nuôi con”, vốn chỉ có thể được xác lập hoặc thay đổi bằng bản án hoặc quyết định của Tòa án theo Điều 81 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Trường hợp thay đổi thực chất người trực tiếp nuôi con thì phải yêu cầu Tòa án giải quyết theo khoản 1 và khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì Tòa án phải xem xét nguyện vọng của con theo khoản 3 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
3.2. Trình tự công chứng, chứng thực văn bản ủy quyền:
Văn bản ủy quyền có thể được công chứng tại tổ chức hành nghề công chứng theo quy định của Luật Công chứng năm 2024. Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính hợp pháp và tính xác thực của hợp đồng, giao dịch bằng văn bản (khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng năm 2024). Trường hợp chỉ yêu cầu xác nhận chữ ký trên “giấy ủy quyền” để sử dụng cho các thủ tục hành chính thông thường, các bên có thể thực hiện chứng thực chữ ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Phòng Tư pháp theo Nghị định số 23/2015/NĐ-CP (Điều 24 về chứng thực chữ ký).
Trình tự thông thường gồm:
- (i) Nộp dự thảo văn bản ủy quyền, xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ chứng minh quan hệ với trẻ và căn cứ giao con;
- (ii) Công chứng viên hoặc người chứng thực kiểm tra năng lực hành vi, ý chí tự nguyện và phạm vi ủy quyền;
- (iii) Ký trước mặt người có thẩm quyền;
- (iv) Nộp phí, lệ phí và nhận văn bản đã được công chứng hoặc chứng thực.
Trong thực tiễn, nên ưu tiên công chứng nếu nội dung ủy quyền liên quan đến quyền, nghĩa vụ quan trọng hoặc có khả năng phát sinh tranh chấp nhằm bảo đảm giá trị pháp lý và khả năng chứng minh; còn chứng thực chữ ký thường phù hợp với ủy quyền có phạm vi hẹp, phục vụ thủ tục hành chính như nộp hồ sơ học tập, khám chữa bệnh, nhận kết quả giấy tờ.
3.3. Giá trị pháp lý của văn bản uỷ quyền nuôi con:
Văn bản ủy quyền là căn cứ pháp lý để phát sinh hậu quả của hành vi đại diện: giao dịch do người được ủy quyền thực hiện trong phạm vi ủy quyền sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ trực tiếp cho bên ủy quyền (khoản 1 Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015). Nếu người được ủy quyền thực hiện vượt quá phạm vi ủy quyền, giao dịch chỉ ràng buộc bên ủy quyền khi được chấp thuận; nếu không, người được ủy quyền phải tự chịu trách nhiệm với bên thứ ba (khoản 1 Điều 143 Bộ luật Dân sự năm 2015). Trong tố tụng, văn bản ủy quyền đã được công chứng hoặc chứng thực là chứng cứ hợp pháp nếu việc công chứng, chứng thực được thực hiện đúng thủ tục (khoản 10 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
Lưu ý, việc ủy quyền nuôi con không làm thay đổi quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con theo khoản 1 và khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đồng thời không thể sử dụng ủy quyền để “chuyển giao” tư cách người trực tiếp nuôi con. Khi thực hiện, cần theo dõi thời hạn ủy quyền, điều kiện chấm dứt ủy quyền theo Điều 569 Bộ luật Dân sự năm 2015 và thông báo kịp thời cho bên thứ ba để tránh phát sinh giao dịch ngoài ý chí.
4. Hậu quả pháp lý và trách nhiệm của các bên khi ủy quyền nuôi con:
4.1. Quyền và nghĩa vụ của người được ủy quyền theo pháp luật:
Người được ủy quyền chỉ được hành động trong phạm vi đã thỏa thuận và nhân danh người ủy quyền; giao dịch hợp lệ trong phạm vi đó làm phát sinh quyền, nghĩa vụ trực tiếp cho người ủy quyền (khoản 1 Điều 138 và khoản 1 Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015). Về nghĩa vụ, người được ủy quyền phải thực hiện công việc trung thực, cẩn trọng, đúng chỉ dẫn; báo cho người ủy quyền về việc thực hiện; bảo quản, giao lại giấy tờ, tài sản và lợi ích thu được; bồi thường thiệt hại nếu có lỗi (Điều 565 Bộ luật Dân sự năm 2015). Người được uỷ quyền có quyền yêu cầu cung cấp thông tin, phương tiện, thù lao và chi phí hợp lý (nếu có thỏa thuận) theo Điều 566 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, các hành vi của người được ủy quyền phải luôn tôn trọng nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của trẻ (Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014) và không được cản trở quyền, nghĩa vụ của người cha/mẹ không trực tiếp nuôi con, đặc biệt là quyền thăm nom con (khoản 1 và khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Trường hợp cần giao lại cho người khác thực hiện (ủy quyền lại) thì chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của người ủy quyền hoặc vì sự kiện bất khả kháng và phải thông báo, chịu trách nhiệm về việc chọn người được ủy quyền lại (Điều 564 Bộ luật Dân sự năm 2015).
4.2. Trách nhiệm pháp lý nếu vi phạm hoặc lạm dụng quyền ủy quyền:
Nếu người được ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch vượt quá phạm vi ủy quyền mà người ủy quyền không chấp thuận thì giao dịch đó không ràng buộc người ủy quyền; người được ủy quyền phải tự chịu trách nhiệm với bên thứ ba về phần vượt quá (khoản 1 Điều 143 Bộ luật Dân sự năm 2015). Trường hợp vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng ủy quyền (không thực hiện đúng, không báo cáo, để mất mát giấy tờ, tài sản…), người được ủy quyền phải bồi thường thiệt hại theo quy định chung về trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự và theo Điều 565 Bộ luật Dân sự năm 2015 (nghĩa vụ bồi thường khi có lỗi).
Đối với hành vi xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ (bạo lực, bỏ mặc, lạm dụng…), Tòa án có thể căn cứ vào Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu việc thay đổi là cần thiết vì lợi ích của trẻ; đồng thời, nếu người ủy quyền (cha/mẹ) buông lỏng, giao con cho người không đủ điều kiện dẫn đến nguy hại cho trẻ, Tòa án có thể xem xét hạn chế quyền của cha, mẹ theo khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Ngoài trách nhiệm dân sự, người vi phạm còn có thể bị xử lý hành chính hoặc hình sự theo pháp luật chuyên ngành tùy tính chất, mức độ hành vi; về mặt tố tụng, văn bản ủy quyền đã công chứng/chứng thực là chứng cứ hợp pháp để xác định phạm vi và trách nhiệm của các bên (khoản 10 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
4.3. Chấm dứt ủy quyền và giải quyết tranh chấp phát sinh:
Hợp đồng ủy quyền chấm dứt khi hết thời hạn, công việc đã hoàn thành, các bên thỏa thuận chấm dứt hoặc khi một bên đơn phương chấm dứt theo Điều 569 Bộ luật Dân sự năm 2015. Thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận hoặc được xác định theo mục đích ủy quyền theo Điều 563 Bộ luật Dân sự năm 2015. Khi đơn phương chấm dứt, mỗi bên phải báo trước cho bên kia một thời gian hợp lý và bồi thường thiệt hại nếu việc chấm dứt gây thiệt hại mà có lỗi (Điều 569 Bộ luật Dân sự năm 2015). Về hệ quả đối với bên thứ ba, người ủy quyền cần thông báo việc chấm dứt ủy quyền. Nếu không thông báo mà để bên thứ ba ngay tình giao dịch với người được ủy quyền, người ủy quyền có thể vẫn bị ràng buộc trong phạm vi bảo vệ người thứ ba ngay tình theo quy định chung về đại diện (diễn giải từ cơ chế tại khoản 1 Điều 141 và khoản 1 Điều 143 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Đối với tranh chấp phát sinh từ ủy quyền nuôi con (ví dụ: tranh luận về phạm vi ủy quyền, trách nhiệm bồi thường, hoàn trả tài sản, chi phí), các bên có thể thương lượng, hòa giải; nếu không đạt kết quả, có quyền khởi kiện/vụ việc dân sự để Tòa án giải quyết theo thủ tục chung của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trường hợp tranh chấp gắn với an toàn, quyền lợi của trẻ, Tòa án có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phù hợp và xem xét thay đổi người trực tiếp nuôi con theo Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ.
THAM KHẢO THÊM: