Quyền khiếu nại, tố cáo là công cụ pháp lý quan trọng để công dân bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức. Hành vi cản trở, xâm phạm quyền này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự pháp luật. Vì vậy, Bộ luật Hình sự đã quy định tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo nhằm bảo đảm quyền dân chủ cơ bản của công dân.
Mục lục bài viết
- 1 1. Phân tích cấu thành tội phạm của tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo:
- 2 2. Hình phạt đối với tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo:
- 3 3. Các tình tiết định khung tăng nặng của tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo:
- 4 4. So sánh với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ:
- 5 5. Ý nghĩa của việc hình sự hóa hành vi xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo:
1. Phân tích cấu thành tội phạm của tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo:
1.1. Cơ sở pháp lý của tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo:
Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo hiện nay được quy định tại Điều 166 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi khác cản trở việc khiếu nại, tố cáo, việc xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc thi hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Trả thù người khiếu nại, tố cáo;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;
d) Dẫn đến biểu tình;
đ) Làm người khiếu nại, tố cáo tự sát.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
1.2. Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo là cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định. Theo Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm với một số tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý và không bao gồm tội danh tại Điều 166, nên không phải chủ thể của tội này.
Đáng lưu ý, Điều 166 Bộ luật Hình sự năm 2015 dự liệu hai dạng chủ thể:
- Chủ thể thường: Bất kỳ ai dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để cản trở việc khiếu nại, tố cáo hoặc quá trình xem xét, giải quyết (điểm a khoản 1);
- Chủ thể có tính chất đặc thù: Người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng vị trí để cản trở việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo (điểm b khoản 1).
Khi người có chức vụ, quyền hạn dùng chính quyền lực công vụ để thực hiện hành vi cản trở theo điểm a khoản 1, đó là tình tiết định khung tăng nặng tại điểm c khoản 2 Điều 166. Trường hợp nhiều người cấu kết, phân công vai trò để thực hiện hành vi sẽ rơi vào tình tiết “có tổ chức” theo điểm a khoản 2 Điều 166; cơ chế đồng phạm áp dụng quy định chung tại Điều 17 Bộ luật Hình sự.
1.3. Khách thể bị xâm hại:
Khách thể trực tiếp là quyền hiến định về khiếu nại, tố cáo của công dân và trật tự quản lý hoạt động tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Quyền này được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại Điều 30 và được luật chuyên ngành cụ thể hóa (Luật Khiếu nại năm 2011; Luật Tố cáo năm 2018). Do đó, hành vi bị xử lý theo Điều 166 không chỉ xâm phạm quyền dân chủ cơ bản của công dân mà còn làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động công vụ (tiếp nhận, xác minh, ban hành và tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo), từ đó ảnh hưởng đến trật tự pháp luật và kỷ cương hành chính.
1.4. Mặt khách quan của tội phạm:
Điều 166 thiết kế hai nhóm hành vi và gắn với hai mô hình cấu thành khác nhau:
Nhóm hành vi cản trở bằng bạo lực, đe dọa hoặc thủ đoạn khác (điểm a khoản 1): Bao gồm các hành vi dùng sức mạnh thể chất; đe dọa gây hại về thân thể, tài sản, danh dự; hoặc các thủ đoạn như theo dõi, khống chế, gây sức ép nơi làm việc, tiết lộ trái phép thông tin riêng tư… nhằm ngăn cản: (i) việc nộp, thực hiện khiếu nại, tố cáo; (ii) việc xem xét, giải quyết của cơ quan có thẩm quyền; hoặc (iii) việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo. Đây là cấu thành hình thức: chỉ cần thực hiện hành vi cản trở với lỗi cố ý là tội phạm đã hoàn thành, không đòi hỏi hậu quả thiệt hại phải xảy ra;
Nhóm hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để cản trở thi hành quyết định giải quyết (điểm b khoản 1): Hành vi ở giai đoạn sau khi đã có quyết định hợp pháp của cơ quan có thẩm quyền (giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo). Chủ thể có chức vụ, quyền hạn dùng vị trí công vụ để trì hoãn, không chấp hành, hủy hoại, vô hiệu hóa việc tổ chức thi hành quyết định đó. Nhóm này là cấu thành vật chất: điều luật yêu cầu hậu quả “gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo” – có thể là thiệt hại vật chất (mất thu nhập, chi phí phát sinh), cơ hội hợp pháp bị tước đoạt hoặc thiệt hại phi vật chất (tổn thất tinh thần đo được bằng các tiêu chí dân sự). Cần chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cản trở thi hành quyết định và thiệt hại thực tế của người khiếu nại, tố cáo.
Như vậy, khi định tội cần xác định đúng giai đoạn (cản trở quyền, cản trở quá trình giải quyết, hay cản trở thi hành quyết định), đúng chủ thể (thường hay có chức vụ), tính chất hậu quả (có/không có thiệt hại) và các tình tiết định khung nêu tại khoản 2 để áp dụng khung hình phạt phù hợp.
1.5. Mặt chủ quan của tội phạm:
Lỗi của người phạm tội là cố ý. Họ nhận thức rõ hành vi của mình cản trở việc thực hiện, giải quyết hoặc thi hành quyết định về khiếu nại, tố cáo; thấy trước khả năng xâm hại đến quyền của công dân và kỷ cương công vụ; đồng thời mong muốn hoặc bỏ mặc hậu quả xảy ra.
Động cơ trong nhiều trường hợp là trả thù, trù dập người khiếu nại, tố cáo; bảo vệ lợi ích cá nhân/nhóm; hoặc lạm dụng quyền lực để che giấu vi phạm. Các động cơ này vừa thể hiện mức độ nguy hiểm của hành vi, vừa có thể là tình tiết định khung (điểm b, c khoản 2 Điều 166). Trường hợp vô ý (do cẩu thả, thiếu trách nhiệm khiến việc thi hành quyết định bị chậm trễ) không thỏa mãn dấu hiệu lỗi của tội danh này, mà có thể bị xem xét theo tội danh khác nếu đủ yếu tố.
Như vậy, cấu thành tội phạm theo Điều 166 Bộ luật Hình sự 2015 được nhận diện qua bốn trụ cột:
- Chủ thể là cá nhân đủ tuổi, có thể là người có chức vụ, quyền hạn;
- Khách thể là quyền khiếu nại, tố cáo và trật tự quản lý nhà nước về giải quyết, thi hành quyết định;
- Mặt khách quan gồm các hành vi cản trở nêu tại khoản 1 và các hậu quả, tình tiết định khung khoản 2;
- Mặt chủ quan là lỗi cố ý với động cơ thường gắn với lạm dụng quyền lực hoặc trả thù.
2. Hình phạt đối với tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo:
2.1. Khung hình phạt cơ bản theo Điều 166 Bộ luật Hình sự:
Theo khoản 1 Điều 166 Bộ luật Hình sự năm 2015, người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi khác để cản trở việc khiếu nại, tố cáo; cản trở việc xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo; hoặc cản trở việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Khung hình phạt này thể hiện quan điểm lập pháp rằng hành vi cản trở quyền hiến định của công dân là nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng. Pháp luật mở ra hai phương án chế tài:
- Phạt cải tạo không giam giữ, nhằm giáo dục, răn đe tại cộng đồng đối với trường hợp ít nghiêm trọng; hoặc
- Phạt tù có thời hạn, áp dụng khi hành vi có tính chất rõ ràng hơn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền công dân và uy tín của cơ quan nhà nước. Việc quy định song song này đảm bảo tính linh hoạt, cá thể hóa hình phạt theo tính chất, mức độ của từng vụ án.
2.2. Các khung hình phạt tăng nặng đặc thù:
Khoản 2 Điều 166 thiết lập khung hình phạt nghiêm khắc hơn, từ 02 năm đến 07 năm tù, áp dụng cho các trường hợp có tình tiết tăng nặng đặc thù, gồm:
- Có tổ chức (điểm a khoản 2): nhiều người câu kết, phân công vai trò nhằm ngăn cản hoặc trả thù người khiếu nại, tố cáo, làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội;
- Trả thù người khiếu nại, tố cáo (điểm b khoản 2): hành vi nhằm trù dập, đe dọa hoặc gây thiệt hại cho người đã sử dụng quyền hiến định, gây tác động tiêu cực đến công tác chống tham nhũng, chống tiêu cực;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để cản trở theo điểm a khoản 1 (điểm c khoản 2): so với khoản 1, hành vi được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn làm tăng mức độ nguy hiểm, bởi lẽ họ dùng chính công quyền để che giấu vi phạm, xâm phạm trực tiếp đến uy tín bộ máy Nhà nước;
- Dẫn đến biểu tình (điểm d khoản 2): hành vi cản trở quyền khiếu nại, tố cáo gây ra hậu quả xã hội lan rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội;
- Làm người khiếu nại, tố cáo tự sát (điểm đ khoản 2): đây là tình tiết nghiêm trọng nhất, thể hiện hậu quả đặc biệt nguy hiểm đến tính mạng con người, vì nạn nhân bị dồn ép đến mức tuyệt vọng.
Như vậy, khung hình phạt tăng nặng không chỉ căn cứ vào hành vi mà còn dựa trên tính chất chủ thể (có chức vụ, quyền hạn) và hậu quả xã hội (biểu tình, tự sát). Điều này bảo đảm xử lý nghiêm minh các hành vi có tính chất lạm dụng quyền lực, trả thù, hoặc gây rối loạn trật tự xã hội.
2.3. Hình phạt bổ sung (nếu có):
Ngoài hình phạt chính, khoản 3 Điều 166 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Đây là hình phạt bổ sung thường áp dụng trong trường hợp người phạm tội là cán bộ, công chức, viên chức hoặc người có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước.
3. Các tình tiết định khung tăng nặng của tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo:
Theo quy định tại Điều 166 Bộ luật Hình sự năm 2015, tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo không chỉ dừng lại ở việc xử lý các hành vi cản trở, trả thù hoặc lợi dụng chức vụ quyền hạn để xâm phạm quyền của công dân trong khiếu nại, tố cáo, mà còn có các tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại khoản 2 Điều 166. Những tình tiết này xác định mức độ nguy hiểm cao hơn cho xã hội, từ đó làm căn cứ áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc hơn, cụ thể từ 02 năm đến 07 năm tù. Các tình tiết định khung tăng nặng bao gồm:
3.1. Phạm tội có tổ chức:
Khoản 2 điểm a Điều 166 Bộ luật Hình sự quy định tình tiết phạm tội có tổ chức là một trong những yếu tố làm tăng nặng khung hình phạt. “Có tổ chức” được hiểu là có sự cấu kết chặt chẽ, phân công vai trò, nhiệm vụ rõ ràng giữa nhiều người cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội, trong đó có sự chủ mưu, chỉ huy và thực hiện theo kế hoạch. Việc phạm tội có tổ chức làm cho hành vi trở nên nguy hiểm hơn vì tính chất có hệ thống, khó phát hiện và gây hậu quả nghiêm trọng hơn cho người khiếu nại, tố cáo cũng như trật tự xã hội.
3.2. Trả thù người khiếu nại, tố cáo:
Khoản 2 điểm b Điều 166 Bộ luật Hình sự quy định hành vi trả thù đối với người khiếu nại, tố cáo là tình tiết định khung tăng nặng. Đây là hành vi nguy hiểm bởi nó trực tiếp xâm hại đến quyền công dân đã được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Trả thù có thể biểu hiện ở nhiều hình thức như gây thương tích, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, hạ thấp uy tín, hoặc gây thiệt hại đến tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của người khiếu nại, tố cáo. Điều này thể hiện sự coi thường pháp luật, đồng thời tạo ra tâm lý e ngại, sợ hãi, làm suy giảm hiệu quả của cơ chế khiếu nại, tố cáo trong việc phát hiện và xử lý vi phạm.
3.3. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc có hành vi khác cản trở:
Khoản 2 điểm c Điều 166 Bộ luật Hình sự quy định việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện các hành vi như dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác nhằm cản trở khiếu nại, tố cáo là tình tiết tăng nặng. So với khoản 1, tình tiết này xác định mức độ nghiêm trọng hơn bởi người phạm tội đã dùng chính quyền lực nhà nước hoặc vị trí công tác để áp chế, ngăn cản quyền hiến định của công dân. Điều này không chỉ xâm hại quyền cá nhân của người khiếu nại, tố cáo, mà còn làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào cơ quan, tổ chức, cán bộ nhà nước.
3.4. Dẫn đến biểu tình:
Khoản 2 điểm d Điều 166 Bộ luật Hình sự xác định việc hành vi xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo dẫn đến hậu quả làm phát sinh biểu tình là tình tiết định khung tăng nặng. Trong trường hợp này, hành vi của người phạm tội không chỉ gây hại cho cá nhân mà còn gây mất ổn định trật tự xã hội, ảnh hưởng đến an ninh chính trị. Biểu tình có thể xuất phát từ việc bức xúc, phẫn nộ của người dân trước hành vi cản trở, trả thù hoặc bao che sai phạm, và nếu không được xử lý kịp thời có thể dẫn tới các hậu quả nghiêm trọng hơn.
3.5. Làm người khiếu nại, tố cáo tự sát:
Khoản 2 điểm đ Điều 166 Bộ luật Hình sự quy định tình tiết đặc biệt nghiêm trọng là việc hành vi phạm tội dẫn đến hậu quả người khiếu nại, tố cáo tự sát. Đây là mức độ nguy hiểm cao nhất được ghi nhận trong khung tăng nặng, bởi hậu quả không chỉ là xâm hại quyền khiếu nại, tố cáo mà còn trực tiếp tước đi tính mạng của công dân – quyền cơ bản nhất được Hiến pháp bảo vệ. Hậu quả này thể hiện mức độ tác động tiêu cực, làm mất đi tính nhân văn của cơ chế khiếu nại, tố cáo trong đời sống xã hội.
Như vậy, các tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2 Điều 166 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã xác định rõ năm trường hợp cụ thể làm cho hành vi xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo trở nên đặc biệt nguy hiểm. Việc phân loại này không chỉ giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định chính xác khung hình phạt, mà còn góp phần bảo vệ hiệu lực, hiệu quả của cơ chế khiếu nại, tố cáo trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
4. So sánh với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ:
Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 166 Bộ luật Hình sự) và tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356 Bộ luật Hình sự) đều là các tội phạm có liên quan đến việc người có chức vụ, quyền hạn lạm dụng thẩm quyền được giao. Tuy nhiên, giữa hai tội danh này tồn tại những điểm khác biệt cơ bản, cần phân tích để tránh nhầm lẫn trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
Thứ nhất, về khách thể bị xâm hại:
- Tội tại Điều 166 Bộ luật Hình sự xâm phạm trực tiếp đến quyền hiến định của công dân về khiếu nại, tố cáo (Điều 30 Hiến pháp năm 2013), đồng thời ảnh hưởng đến trật tự quản lý nhà nước trong việc tiếp nhận, giải quyết và thi hành quyết định khiếu nại, tố cáo;
- Tội tại Điều 356 Bộ luật Hình sự xâm phạm đến hoạt động đúng đắn, liêm chính của bộ máy công vụ nói chung, trong đó người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng công vụ để vụ lợi hoặc mưu cầu lợi ích cá nhân khác, gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Thứ hai, về hành vi khách quan:
- Điều 166 quy định các hành vi cản trở: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để cản trở quyền khiếu nại, tố cáo hoặc cản trở thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đặc trưng của hành vi ở đây là ngăn cản, trù dập, trả thù người thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo;
- Điều 356 điều chỉnh hành vi làm trái công vụ vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, với điều kiện là hành vi này gây ra thiệt hại cụ thể: thiệt hại về tài sản từ 10 triệu đồng trở lên hoặc thiệt hại khác cho quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Như vậy, hành vi trong Điều 356 thường gắn với mục đích vụ lợi vật chất hoặc lợi ích cá nhân, không nhất thiết liên quan đến việc cản trở quyền khiếu nại, tố cáo.
Thứ ba, về hậu quả pháp lý:
- Điều 166 phân hóa hậu quả theo tính chất hành vi và tình tiết: nếu hành vi chỉ dừng ở mức cản trở thì khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù 06 tháng đến 03 năm; nếu có tình tiết tăng nặng (có tổ chức, trả thù, làm nạn nhân tự sát, dẫn đến biểu tình…) thì mức phạt lên tới 02 – 07 năm tù;
- Điều 356 quy định chế tài gắn với mức độ thiệt hại tài sản: từ 10 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng, mức phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù 01 – 05 năm; từ 200 triệu đến dưới 1 tỷ đồng, phạt tù 05 – 10 năm; từ 1 tỷ đồng trở lên, phạt tù 10 – 15 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ và bị phạt tiền.
Thứ tư, về lỗi và động cơ:
- Điều 166 thường gắn với lỗi cố ý trực tiếp, với động cơ chủ yếu là trả thù, trù dập hoặc bao che sai phạm, chứ không nhất thiết là vụ lợi;
- Điều 356 đòi hỏi phải chứng minh rõ động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, đây là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm.
Tiêu chí phân biệt then chốt:
- Nếu hành vi cản trở hoặc trả thù người khiếu nại, tố cáo, xâm phạm trực tiếp đến quyền hiến định của công dân, thì phải xử lý theo Điều 166 Bộ luật Hình sự;
- Nếu hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái công vụ và gây thiệt hại về tài sản hoặc lợi ích hợp pháp, thì áp dụng Điều 356 Bộ luật Hình sự.
Như vậy, cả hai tội danh đều có điểm giao thoa về dấu hiệu “người có chức vụ, quyền hạn”, nhưng phạm vi bảo vệ và bản chất hành vi là khác nhau: Điều 166 nhấn mạnh đến quyền con người, còn Điều 356 nhấn mạnh đến sự trong sạch của hoạt động công vụ và thiệt hại tài sản.
5. Ý nghĩa của việc hình sự hóa hành vi xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo:
Trên thực tế, không ít trường hợp người dân khi thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đã bị đe dọa, trả thù, trù dập hoặc cản trở bởi những người có chức vụ, quyền hạn hoặc các cá nhân, tổ chức có liên quan. Những hành vi này không chỉ xâm phạm trực tiếp đến quyền công dân được Hiến pháp bảo vệ mà còn làm suy yếu hiệu quả của cơ chế giám sát xã hội, gây mất niềm tin vào tính nghiêm minh của pháp luật.
Chính vì vậy, Điều 166 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo. Việc hình sự hóa hành vi này có ý nghĩa sâu sắc ở nhiều khía cạnh:
- Thứ nhất, khẳng định sự tôn trọng tuyệt đối đối với quyền hiến định của công dân; bất kỳ hành vi nào cản trở, trù dập, trả thù người khiếu nại, tố cáo đều bị coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội và phải xử lý hình sự;
- Thứ hai, bảo đảm cơ chế bảo vệ thực chất cho người khiếu nại, tố cáo, đặc biệt là những người dám đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật;
- Thứ ba, góp phần giữ vững kỷ cương pháp luật và sự liêm chính của bộ máy nhà nước, ngăn ngừa tình trạng lạm dụng quyền lực để che giấu vi phạm.
Có thể thấy, quy định tại Điều 166 Bộ luật Hình sự 2015 không chỉ mang ý nghĩa răn đe, trừng trị hành vi vi phạm mà còn thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước trong việc bảo vệ công lý, bảo đảm dân chủ, tạo niềm tin cho công dân khi sử dụng quyền khiếu nại, tố cáo theo quy định pháp luật.
THAM KHẢO THÊM: