Quyền hội họp, lập hội là một trong những quyền cơ bản của công dân, được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, khi hành vi của cá nhân hoặc tổ chức xâm phạm quyền này, pháp luật hình sự sẽ can thiệp để bảo đảm trật tự xã hội. Bài viết này phân tích tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân theo Bộ luật Hình sự, các khung hình phạt và tình tiết tăng, giảm nhẹ.
Mục lục bài viết
- 1 1. Tổng quan về tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân:
- 3 3. Hình phạt đối với tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân:
- 4 4. Tình tiết định khung tăng nặng theo Khoản 2 Điều 163:
- 5 5. Một số tình tiết giảm nhẹ, miễn trách nhiệm hình sự có thể áp dụng:
- 6 6. So sánh với tội gây rối trật tự công cộng (Điều 318 Bộ luật Hình sự):
1. Tổng quan về tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân:
1.1. Cơ sở pháp lý:
Tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân được quy định tại Điều 163 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“Điều 163. Tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác ngăn cản hoặc ép buộc người khác lập hội, hội họp hợp pháp, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Dẫn đến biểu tình;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Điều 163 Bộ luật Hình sự chia tội này thành các mức độ khác nhau dựa trên hành vi và hoàn cảnh phạm tội, đồng thời áp dụng các hình phạt chính như cải tạo không giam giữ, phạt tù, cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định, nhằm răn đe và phòng ngừa.
1.2. Ý nghĩa bảo vệ quyền hội họp, lập hội trong pháp luật Việt Nam:
Quyền hội họp, lập hội là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định tại Điều 25. Việc hình sự hóa hành vi xâm phạm quyền này nhằm:
- Bảo vệ quyền tự do cá nhân và quyền tham gia các hoạt động xã hội hợp pháp;
- Đảm bảo trật tự công cộng và an ninh xã hội, ngăn chặn các hành vi gây rối, dẫn đến biểu tình trái pháp luật;
- Răn đe những người có chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng các mối quan hệ tổ chức để vi phạm, tránh việc lạm quyền và xâm phạm quyền hợp pháp của công dân;
- Tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và củng cố niềm tin của công dân vào pháp luật.
Như vậy, tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội vừa bảo vệ quyền con người, vừa bảo vệ lợi ích chung của xã hội, đồng thời điều chỉnh hành vi nhằm phòng ngừa và xử lý các hành vi xâm phạm có tính tái diễn hoặc tổ chức có hệ thống.
2. Cấu thành tội phạm của tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân:
2.1. Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của Điều 12 Bộ luật Hình sự. Tội phạm này yêu cầu chủ thể có năng lực nhận thức và điều khiển hành vi, tức là phải biết việc dùng vũ lực, đe dọa hoặc thủ đoạn khác để ngăn cản, ép buộc người khác tham gia lập hội, hội họp là hành vi trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật sẽ được coi là tình tiết tăng nặng theo khoản 2, điểm b Điều 163 Bộ luật Hình sự.
2.2. Khách thể bị xâm hại:
Khách thể của tội phạm này là quyền tự do cơ bản của công dân được Hiến pháp bảo đảm, cụ thể là quyền lập hội, quyền tham gia hội họp hợp pháp, đồng thời xâm phạm trật tự, an ninh xã hội. Hành vi của người phạm tội làm ảnh hưởng đến quyền cơ bản này, gây rối hoặc cản trở việc thực hiện các quyền dân chủ của công dân, làm suy giảm niềm tin vào pháp luật và tổ chức xã hội.
2.3. Mặt khách quan:
Mặt khách quan của tội phạm thể hiện qua hành vi cụ thể của người phạm tội, bao gồm:
- Dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để ngăn cản người khác lập hội hoặc hội họp hợp pháp;
- Dùng thủ đoạn khác, như áp lực, cưỡng ép, gian dối hoặc lợi dụng ảnh hưởng xã hội để ép buộc người khác tham gia hoặc không tham gia hội họp;
- Tái phạm sau khi đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi tương tự, theo khoản 1 Điều 163 Bộ luật Hình sự, thể hiện hành vi có hệ thống và cố ý tiếp tục vi phạm.
Các hành vi này phải có mối quan hệ nhân quả trực tiếp với việc xâm phạm quyền hội họp, lập hội, dẫn đến việc công dân không thực hiện được quyền hợp pháp của mình.
2.4. Mặt chủ quan:
Người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, tức là biết rõ việc dùng vũ lực, đe dọa hoặc thủ đoạn khác sẽ ngăn cản quyền lập hội, hội họp hợp pháp của công dân nhưng vẫn thực hiện.
Động cơ có thể bao gồm:
- Bảo vệ lợi ích cá nhân hoặc nhóm;
- Duy trì quyền lực, lợi ích chính trị, tổ chức hoặc địa phương;
- Phòng ngừa hoặc trấn áp các cuộc hội họp mà họ cho là bất lợi.
Mục đích của hành vi thường nhằm ép buộc hoặc ngăn chặn công dân thực hiện quyền hợp pháp, gây cản trở trật tự công cộng.
3. Hình phạt đối với tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân:
3.1. Khung hình phạt cơ bản:
Theo khoản 1 Điều 163 Bộ luật Hình sự, đối với hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để ngăn cản hoặc ép buộc người khác lập hội, hội họp hợp pháp, trong trường hợp đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tương tự mà vẫn tiếp tục vi phạm, người phạm tội sẽ chịu khung hình phạt cơ bản như sau:
- Phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm; hoặc
- Phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
Khung hình phạt cơ bản này phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội tương đối thấp, vì hành vi thực hiện lần đầu hoặc tái phạm nhưng chưa gây ra những hệ quả nghiêm trọng về trật tự công cộng, an ninh xã hội. Khung này áp dụng khi tội phạm chưa có tổ chức, chưa dẫn đến biểu tình, chưa lợi dụng chức vụ, quyền hạn.
3.2. Hình phạt bổ sung:
Ngoài phạt tù, theo khoản 3 Điều 163 Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị áp dụng các biện pháp bổ sung, gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Biện pháp bổ sung này nhằm ngăn chặn việc tiếp tục lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc ảnh hưởng xã hội để tái phạm, đồng thời bảo vệ quyền hội họp, lập hội hợp pháp của công dân.
4. Tình tiết định khung tăng nặng theo Khoản 2 Điều 163:
Theo khoản 2 Điều 163 Bộ luật Hình sự, các tình tiết sau được xem là tăng nặng trách nhiệm hình sự, làm gia tăng mức phạt đối với người phạm tội:
- Có tổ chức: hành vi được thực hiện có sự chuẩn bị, phân công vai trò cụ thể, chứng tỏ tính hệ thống, nguy cơ xâm hại quyền hội họp, lập hội lớn hơn;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: người phạm tội sử dụng vị trí, quyền hạn công vụ hoặc vai trò trong cơ quan, tổ chức để thực hiện hành vi, làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội;
- Phạm tội 02 lần trở lên: tái phạm chứng tỏ người phạm tội cố ý lặp lại hành vi xâm phạm, cần mức hình phạt cao hơn;
- Dẫn đến biểu tình: hành vi trực tiếp gây ra những tác động tập thể, làm phức tạp tình hình an ninh, trật tự;
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: hậu quả hành vi vượt quá phạm vi cá nhân, gây rối loạn trật tự công cộng, cần phải xử lý nghiêm hơn.
Các tình tiết tăng nặng nàynâng khung hình phạt từ 03 tháng đến 01 năm tù lên từ 01 năm đến 03 năm tù.
5. Một số tình tiết giảm nhẹ, miễn trách nhiệm hình sự có thể áp dụng:
5.2. Tình tiết giảm nhẹ:
Theo Điều 51 Bộ luật Hình sự, các tình tiết giảm nhẹ có thể áp dụng đối với tội phạm này bao gồm:
- Người phạm tội chưa từng có tiền án, tiền sự, lần đầu vi phạm;
- Người phạm tội thành khẩn khai báo, tích cực khắc phục hậu quả, như xin lỗi, bồi thường thiệt hại cho người bị xâm hại;
- Người phạm tội có công lao xuất sắc hoặc đã lập công lớn trước và trong khi phạm tội;
- Các tình tiết khác theo quy định pháp luật giúp xác định mức độ lỗi và khả năng cải tạo.
- Tình tiết giảm nhẹ giúp Tòa án xem xét áp dụng mức phạt thấp hơn khung hình phạt cơ bản, có thể áp dụng phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù thấp hơn khung cơ bản 03 tháng – 01 năm.
5.3. Các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự:
Theo quy định tại Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015, người phạm tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân có thể được miễn trách nhiệm hình sự trong các trường hợp sau:
- Miễn trách nhiệm do thay đổi chính sách hoặc pháp luật: Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, nếu có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi xâm phạm quyền hội họp, lập hội không còn nguy hiểm cho xã hội, người thực hiện hành vi có căn cứ được miễn trách nhiệm hình sự;
- Miễn trách nhiệm do quyết định đại xá: Nếu Nhà nước ban hành quyết định đại xá, người phạm tội cũng thuộc diện được miễn trách nhiệm hình sự;
- Miễn trách nhiệm do chuyển biến tình hình hoặc bệnh hiểm nghèo: Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu trong quá trình điều tra, truy tố hoặc xét xử, tình hình chuyển biến khiến họ không còn nguy hiểm cho xã hội hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội;
- Miễn trách nhiệm do tự thú và lập công: Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, nếu người phạm tội tự thú, khai báo trung thực, góp phần hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, hạn chế tối đa hậu quả, lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt được Nhà nước và xã hội thừa nhận, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự;
- Miễn trách nhiệm do tự nguyện khắc phục hậu quả: Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội ít nghiêm trọng, gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp đồng ý, cũng có thể được xem xét miễn trách nhiệm hình sự.
Như vậy, việc xác định định khung tăng nặng, giảm nhẹ và các tình tiết pháp lý đối với tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội được quy định chi tiết trong Điều 163 Bộ luật Hình sự 2015, kết hợp với các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự chung, giúp Tòa án cân nhắc công bằng giữa mức độ nguy hiểm của hành vi và khả năng sửa chữa, cải tạo của người phạm tội.
6. So sánh với tội gây rối trật tự công cộng (Điều 318 Bộ luật Hình sự):
Khách thể pháp luật bảo vệ:
- Tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân (Điều 163 Bộ luật Hình sự): bảo vệ quyền cơ bản của công dân trong việc lập hội, hội họp hợp pháp; hành vi vi phạm tập trung vào việc ngăn cản, ép buộc, sử dụng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để cản trở quyền hội họp, lập hội hợp pháp;
- Tội gây rối trật tự công cộng (Điều 318 Bộ luật Hình sự): bảo vệ trật tự công cộng, an ninh, an toàn xã hội, tập trung vào các hành vi gây rối, phá hoại, xúi giục, cản trở giao thông hoặc đình trệ hoạt động xã hội.
Mặt khách quan của hành vi:
- Điều 163 Bộ luật Hình sự: hành vi ngăn cản, ép buộc, dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác nhằm hạn chế quyền hội họp, lập hội; phạm tội có thể đơn lẻ hoặc có tổ chức, nhưng hậu quả trực tiếp là xâm phạm quyền lập hội của công dân;
- Điều 318 Bộ luật Hình sự: hành vi gây rối trật tự công cộng như: gây cản trở giao thông, xúi giục, hành hung người can thiệp, dùng vũ khí, hung khí hoặc phá phách; hậu quả là ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội rộng hơn, có thể liên quan đến nhiều người và nhiều hoạt động xã hội.
Mặt chủ quan và lỗi:
Cả hai tội đều yêu cầu lỗi cố ý, tuy nhiên:
- Điều 163: chủ thể nhận thức được hành vi của mình sẽ cản trở quyền hội họp, lập hội hợp pháp, vẫn tiến hành vi phạm;
- Điều 318: chủ thể nhận thức hành vi sẽ gây rối trật tự công cộng, phá hoại an ninh, trật tự xã hội và cố ý thực hiện hành vi đó.
Hình phạt và khung xử lý:
Điều 163 Bộ luật Hình sự:
- Phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm;
- Phạm tội có tổ chức, lợi dụng chức vụ, tái phạm hoặc dẫn đến biểu tình, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự thì phạt tù 01 – 03 năm, kèm biện pháp bổ sung: cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề 01 – 05 năm.
Điều 318 Bộ luật Hình sự:
- Phạt tiền từ 5.000.000 đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù 03 tháng – 02 năm;
- Phạm tội có tổ chức, dùng vũ khí, gây cản trở giao thông, xúi giục, hành hung hoặc tái phạm nguy hiểm thì phạt tù 02 – 07 năm.
Như vậy, Điều 163 tập trung bảo vệ quyền lập hội hợp pháp của công dân, hành vi vi phạm chủ yếu là ngăn cản, ép buộc, dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác; hậu quả xã hội thường trực tiếp liên quan đến vi phạm quyền của cá nhân hoặc nhóm trong việc hội họp. Còn Điều 318 bảo vệ trật tự công cộng, an ninh xã hội, hành vi vi phạm thường mang tính tập thể, gây rối, phá hoại, ảnh hưởng đến nhiều người và hoạt động xã hội, có nguy cơ gây hậu quả nghiêm trọng hơn.
Mặc dù cả hai tội đều có liên quan đến biểu tình hoặc tụ tập đông người, nhưng Điều 163 là tội xâm phạm quyền công dân, còn Điều 318 là tội xâm hại trật tự xã hội. Việc phân biệt rõ hai tội này giúp Tòa án áp dụng đúng khung hình phạt, đánh giá hậu quả và áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hợp lý.
THAM KHẢO THÊM: